Tìm kiếm tin tức
CHI BỘ DƯƠNG HÒA LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG, GIAI ĐOẠN 1965 - 1975
Ngày cập nhật 11/04/2019

CHI BỘ DƯƠNG HÒA LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG, GIAI ĐOẠN 1965 - 1975

I. Chi bộ Dương Hòa lãnh đạo phong trào cách mạng giai đoạn 1965 - 1967.

Cuộc tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của quân dân miền Nam trong năm 1964 và đầu năm 1965 làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Trước nguy cơ tan rã hoàn toàn của ngụy quân, ngụy quyền, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam, thực hiện chiến tranh xâm lược.

Ngay từ lúc quân đội Mỹ có mặt trên địa bàn huyện Hương Thủy, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có tư tưởng ngại Mỹ, ngại ác liệt. Song nhờ tinh thần Nghị quyết lần thứ 11 (tháng 3/1965) của Trung ương “chuẩn bị sẵn sàng đánh địch khi chúng chuyển sang chiến lược chiến tranh mới” và lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước kỳ họp Quốc hội khóa 3 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Dù Mỹ đưa thêm mấy chục vạn binh sĩ và cố lôi kéo thêm quân đội các nước chư hầu vào cuộc chiến tranh tội ác này, thì quân dân ta cũng đánh thắng chúng”[1].

Ngày 25/7/1965, tại vùng núi huyện Hương Trà, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế đã kiểm điểm phong trào của tỉnh từ năm 1961 đến năm 1964, rút ra bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng căn cứ, khôi phục phong trào đồng bằng, đề ra nhiệm vụ chống “Chiến tranh cục bộ” và bầu Tỉnh ủy mới. Đại hội cũng đã quyết định thành lập các đơn vị diệt Mỹ và các vành đai diệt Mỹ quanh các căn cứ Mỹ. Đại hội Đảng bộ tỉnh đã khẳng định vai trò của Đảng trong việc lãnh đạo chống “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, nhất là phát động quần chúng đồng khởi, mở rộng vùng giải phóng. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Thanh (Tư Chúc), Khu ủy viên làm Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Hoàng Đắc - Chánh văn phòng Tỉnh ủy vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và bầu đồng chí Hoàng Đắc làm Bí thư Huyện ủy Hương Thủy.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, Huyện ủy Hương Thủy đã kịp thời đề ra chủ trương để lãnh đạo nhân dân trong huyện đương đầu với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Hương Thủy. Cụ thể là:

  • Cán bộ, đảng viên và lực lượng cách mạng kiên quyết bám trụ địa bàn, không rời cơ sở dẫu cho ác liệt, hy sinh đến mấy.
  • Củng cố và phát triển cơ sở, nhất là phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng ở các xã. Bảo đảm giáo dục, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi thử thách, kiên trì, bền bỉ, dũng cảm đấu tranh trên cả ba mũi giáp công để đánh thắng Mỹ từng trận, từng cuộc, thực hiện chủ trương “một tấc không đi, một li không rời”…
  • Xây dựng bộ đội địa phương, an ninh huyện và lực lượng du kích vững mạnh, thực hiện khẩu hiệu: “tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt”, hỗ trợ cho nhân dân chống 2 gọng kìm “tìm diệt và bình định” của địch.
  • Củng cố đội quân tóc dài ở các xã, phát huy mũi tấn công chính trị trong thời kì mới.
  • Phát động phong trào thi đua toàn dân đánh Mỹ trong toàn huyện.

Riêng ở Hương Thọ, vào đầu năm 1965, các thôn trong xã đã trở thành vùng giải phóng liên hoàn, Mặt trận dân tộc giải phóng xã, Ủy ban tự quản các thôn, lực lượng du kích, các đoàn thể hình thành và phát triển nhanh. Tháng 4/1965, tại lăng Gia Long, (Đình Môn) Chi bộ xã Hương Thọ được kiện toàn, do đồng chí Nguyễn Nghí (tức Nguyễn Trọng Tài) làm Bí thư, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng xã do đồng chí Mai Văn Duyến làm Chủ tịch xã[2]. Trên cơ sở sự phát triển của phong trào cách mạng địa phương, đã xuất hiện nhiều cá nhân kiên trung được lựa chọn để kết nạp vào Đảng như nữ đồng chí Lệ (Dương Hòa)… Đến cuối năm 1965, đồng chí Nguyễn Nghí được rút về huyện bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy, đồng chí Đơ được chỉ định làm Bí thư Chi bộ, đồng chí Mai Ngọc Phương làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng xã[3].

Trên cơ sở sự củng cố và kiện toàn của cơ sở Đảng ở Dương Hòa đã tạo điều kiện cho các lực lượng cách mạng tại đây phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) lực lượng du kích xã Dương Hòa đã xây dựng được các trung đội, tiểu đội du kích tập trung(3). Trong quá trình chiến đấu lực lượng cách mạng này đã phát huy tốt vai trò nòng cốt trong phong trào chiến tranh nhân dân, thường xuyên tổ chức ngăn cách, bảo vệ xóm làng, trinh sát dẫn đường cho các đơn vị bộ đội đánh địch và chủ động phối hợp với các lực lượng khác để tấn công địch.

Khi vành đai diệt Mỹ được thành lập, chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ở Hương Thủy phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, các lứa tuổi đều tham gia đánh Mỹ, dưới sự động viên khích lệ của các cán bộ, đảng viên Đội thiếu niên du kích Dương Hòa đã hình thành và hoạt động dũng cảm, kiên cường hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển cao hơn.

Phát huy những tiềm lực cách mạng của địa phương, với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chi bộ, nhân dân Dương Hòa tràn đầy quyết tâm để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù.

Vào năm 1965, để ngăn chặn lực lượng cách mạng từ căn cứ về đồng bằng và dồn dân vào các khu vực sát đồn bốt địch, xóa bàn đạp cách mạng ở các xã giáp ranh, địch đã bắn phá ác liệt, càn quét liên tục, tập kích thường xuyên vào Dương Hòa… nhằm triệt phá hành lang liên kết giữa đồng bằng, thành phố và vùng hậu cứ của ta (Chiến khu Phương Hải, Chiến khu Dương Hòa)[4], bằng cách bắt ép nhân dân ở các thôn thuộc xã Hương Thọ về tập trung tại trại định cư Hòa Lương (thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng).

Trước tình hình đó, Chi bộ Dương Hòa đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh không chịu về các trại qui khu, Chi bộ đã lãnh đạo tổ chức thành 4 nhóm lui về rừng sâu bám đất sản xuất để nuôi cán bộ:

  • Nhóm 1 là các gia đình ở làng Lương Miêu gồm gia đình của ông Lê Văn Vung, gia đình chị Chanh, mẹ Út, Võ Thị Xuân, gia đình anh Cói, anh Thận….
  • Nhóm 2 là các gia đình ở xóm Hộ (Dương Hòa) gồm gia đình anh Toàn, anh Tráng, anh Thừa, anh Huỳnh Vàng. Nhóm 1 và 2 lui về hang núi Hóc Lấu (ở Lương Miêu).
  • Nhóm 3 là các gia đình ở xóm Hạ như gia đình mẹ Đậu, chị Đường, anh Kháng, anh Thái, anh Mãi… lui về núi Lầy (Khe Nhánh).
  • Nhóm 4 là các gia đình ở xóm Hạ gồm gia đình anh Nghi, anh

Phái, anh Dương, anh Thuyết, anh Hải, anh Minh (tức Hoàng Hồng Minh) lui về ruộng đập Bến Miểu (núi Mụ Bưởi)[5].

Tất cả con em các gia đình này sau đó đều thoát ly đi theo cách mạng, gia nhập vào lực lượng vũ trang của huyện, tỉnh. Đặc biệt nhân dân 2 thôn Đình Môn và Kim Ngọc mãi đến năm 1967 mới bị gom dân về trại tập trung chi khu quân sự quận lỵ Nam Hòa, nhưng chưa đầy 1 năm đã đấu tranh đòi về lại làng cũ.

Trước sức mạnh của phong trào cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải đưa quân ồ ạt trực tiếp xâm lược miền Nam. Xuất phát từ những yêu cầu nhiệm vụ mới của Trị Thiên - Huế, tháng 4/1966, Trung ương Đảng quyết định thành lập Khu ủy và Quân khu ủy Trị Thiên - Huế. Tháng 8/1967 giải thể 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên thành lập các Mặt trận, Thành phố Huế trực thuộc Khu ủy gồm 3 quận nội thành và 3 huyện là Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang. Tiếp đó, Trung ương quyết định mở Mặt trận quân sự đường 9. Trước tình hình mới, huyện Hương Thủy đã họp bàn kế hoạch phối hợp với thành phố Huế, cụ thể là:

  • Đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền ở các xã làm chủ và các xã tranh chấp. Tổ chức du kích mật đánh các đoàn bình định, tiêu diệt các tên ác ôn, phá các âm mưu thủ đoạn của địch.
  • Củng cố đội quân tóc dài các xã, thôn, tổ chức các đoàn biểu tình kéo vào thành phố, chủ yếu là các xã vùng ven. Các xã khác đấu tranh trực diện với địch ở quận, ở xã, để phá tan các cuộc hành quân càn quét của chúng.
  • Lợi dụng lúc địch rối loạn ở thành phố, tranh thủ thời gian hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng, đào tạo cán bộ, đẩy mạnh sản xuất, thu mua lương thực(2)

Thực hiện chủ trương của tỉnh, huyện, Chi bộ Dương Hòa đã lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, làm tròn nhiệm vụ phối hợp cùng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, thành phố đẩy lùi các hoạt chống phá của kẻ thù.

Phát huy thắng lợi 6 tháng đầu năm 1966, du kích Dương Hòa… bao vây chặn đánh quân địch đóng ở điểm cao Động Hoàng, bảo vệ vùng giải phóng Đình Môn, Dương Hòa[6].

Vào lúc 14 giờ ngày 06/7/1967, địch dùng chiến thuật “phượng hoàng vồ mồi” bất ngờ dùng trực thăng đổ quân ồ ạt ở 3 thôn Đình Môn, Dương Hòa, Kim Ngọc gồm 1 Tiểu đoàn lính Mỹ, 1 tiểu đoàn “Trâu điên” ngụy, máy bay lên thẳng vũ trang máy bay phản lực, máy bay gọi hàng, chiêu hồi, gọi người dân tập kết ở khu bãi đổ quân. Trên đồi, trên ruộng thì quân Mỹ đổ quân, dưới sông Hương canô, giang thuyền của địch tập trung. Ta rơi vào thế vừa bị động, vừa cấp bách, buộc lực lượng du kích phải tự chủ động chiến đấu để cứu dân, cứu mình. Địch vừa đánh, vừa đốt phá, vừa xúc dân xuống tàu. Không đầy một giờ cả 3 thôn đều khói lửa nghi ngút. Lợi dụng khói lửa, các tổ du kích từ địa hình đồi núi đồng loạt xả súng vào các máy bay sà thấp, làm 2 máy bay địch bốc cháy[7].   

Tiếp đó, thực hiện Chỉ thị “Thi đua tấn công toàn diện mùa thu” của An ninh khu Trị Thiên để thiết thực chào mừng ngày Quốc Khánh 02/9/1967, nhân dân Dương Hòa tích cực phối hợp với lực lượng Trinh sát vũ trang Hương Thủy phá trò hề bầu cử Tổng thống và Thượng nghị viện của ngụy quyền Sài Gòn. Đêm 31/8/1967, Trinh sát vũ trang phân đội 66A (phân đội hoạt động trên địa bàn Hương Thủy) kết hợp du kích

Dương Hòa tiền trạm chia làm 2 mũi đột nhập bí mật, rải truyền đơn phá bầu cử ở khắp 2 thôn Dương Hòa, Lương Miêu, tẩy chay trò hề bầu cử bịp bợm này của địch[8].

Tại bờ Nam bến đò Tuần gần ngã ba sông Tả Trạch, khu vực nằm sát ngã ba sông, sát ngay quận lị Nam Hòa và các đồn bốt của địch thường xuyên có một đại đội bảo an bảo vệ khu vực cố vấn Mỹ, ở quanh khu vực này đều có quân Mỹ và lực lượng bảo an đóng chốt, tại đồn La Khê Trẹm, lăng Minh Mạng mỗi nơi bố trí 1 đại đội Mỹ, tại các thôn La Khê, Kim Ngọc, Đình Môn mỗi nơi bố trí Trung đội dân vệ.

Để phá vỡ sự vây ráp đó của kẻ thù, tạo điều kiện củng cố tư tưởng, phát động quần chúng đấu tranh và củng cố, phát triển các cơ sở bên trong ở các khu tập trung, từ những thông tin được cung cấp từ lực lượng trinh sát của đội công tác Dương Hòa, ngày 12/6/1967 Ban Chỉ huy xã đội Dương Hòa quyết định tổ chức một trận phục kích tiêu diệt trung đội công binh Mỹ khi chúng trở về lại bờ sông, sát bến đò Tuần, cách đồn La Khê Trẹm 250m, cách quận lị Nam Hòa 450km.

Thực hiện chủ trương trên, vào lúc 16 giờ ngày 12/6/1967 lực lượng của ta đã triển khai bố trí xong trận địa phục kích. Khoảng một tiếng, đội phà của địch đã lọt hẳn vào trận địa phục kích của ta, lúc này phà chỉ cách bờ 25m, Xã đội trưởng Hương Thọ liền ra lệnh nổ súng. Tất cả súng trường, tiểu liên, trung liên cùng bất ngờ đồng loạt bắn vào bọn địch, tiếp theo là hàng loạt lựu đạn… từ trên cao ném xuống phà. Ngay loạt đầu tiên, nhiều tên bị diệt tại chỗ, dây ghép phà bị đứt, dãy phà từ từ quay ngang, bọn Mỹ trên phà hoàn toàn mất tinh thần, tranh nhau nằm ép xuống sàn phà tránh đạn, không bắn trả được phát nào. Du kích dùng lựu đạn đánh tới tấp vào trong phà địch, hầu hết số địch trên phà đều bị giết, 4 tên sống sót vội nhảy xuống sông tìm đường bỏ chạy nhưng cũng bị tiêu diệt nốt. Dây nối ca nô với phà bị đứt, tên lái ca nô vội bỏ chạy về quận Nam Hòa, bỏ mặc phà và bọn lính công binh.

Sau 5 phút chiến đấu, toàn bộ trung đội công binh địch đã bị diệt, Xã đội trưởng liền ra lệnh cho lực lượng du kích rút lui. Sau khi du kích rút, pháo địch ở các đồn mới bắn tới tấp vào tuyến bờ sông và những đường mòn chạy hướng về núi Hòn Gay. Sau hơn 30 phút, địch ở La Khê mới cho quân ra chi viện thì lực lượng ta đã về chiến khu an toàn.

Sau trận đánh này, địch trong các đồn bốt xung quanh hoảng sợ co cụm lại, chúng bảo nhau “Mỹ trang bị đủ như vậy mà chỉ trong 5 phút bị chủ lực quân giải phóng diệt gọn cả trung đội, bọn ta thấm vào đâu, chớ có đi lùng sục ra mà chết oan”. Từ đó các hoạt động lùng sục của địch giảm hẳn. Nhân dân vô cùng phấn khởi vì có cách mạng, quân giải phóng bên cạnh họ, khí thế đấu tranh của quần chúng bắt đầu đi lên(1).

Trên đà những thắng lợi quân sự đã đạt được, tháng 10/1967, từ khu vực gần núi Rệ (chiến khu Dương Hòa), Tiểu đoàn 1 Đặc công của Thành đội Huế có du kích Dương Hòa dẫn đường đã tiến đánh các căn cứ thiết giáp của ngụy ở Tam Thai, phía Tây Nam thành phố Huế.

II. Chi bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện nổi dậy xuân Mậu Thân (1968)

Tháng 7/1967, Bộ Chính trị ra chỉ thị “trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài cần phát huy chiến thắng to lớn của mùa khô đến mức cao nhất nhằm giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn”(2). Trên cơ sở thắng lợi chính trị, quân sự, ngoại giao, Hội nghị Trung ương Đảng tháng 01/1968 lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định: “Những cố gắng của Mỹ ở Việt Nam đã tới đỉnh cao nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi, tương quan lực lượng ngày càng có lợi cho ta”(3). Từ nhận định

  1. Bộ Tư lệnh quân khu 4, Đảng ủy - Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Những trận đánh trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên địa bàn Thừa Thiên Huế (1945 - 1975),tập XV, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 99 - 107.
  2. (3) Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập II (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 143-145.

trên, Hội nghị chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công đồng loạt trong Tết Mậu Thân (1968) nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của Mỹ.

Quán triệt tinh thần của Nghị quyết Trung ương (01/1968), tháng 10/1967 Khu ủy Trị Thiên - Huế họp ở căn cứ Động Chuối giáp ranh Phong Điền đề ra nhiệm vụ cho Đảng bộ và nhân dân Trị Thiên - Huế: “Tập trung sức lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong khu, với sự nỗ lực và có cố gắng cao nhất, tinh thần quật khởi nhất, tiến công địch liên tục và toàn diện cả quân sự, chính trị, binh vận, tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân Mỹ, cô lập chúng và làm cho chúng không cứu vãn được cho quân ngụy, chiếm lĩnh những vùng nông thôn xung yếu, làm rối loạn thành phố và hệ thống phòng ngự của địch, phối hợp với các chiến trường khác, tiến lên tổng tiến công và tổng khởi nghĩa, giải phóng Trị Thiên - Huế, giành chính quyền về tay nhân dân, thiết lập chính quyền và trật tự cách mạng, đánh bại mọi cuộc phản kích của địch”[9]. Dự kiến kế hoạch chia làm 2 bước:

  • Bước 1 (đông xuân 1967 - 1968) đẩy mạnh tiến công, vừa đánh địch để mở rộng vùng giải phóng, vừa xây dựng lực lượng ven thành phố và cả trong thành phố, tăng cường lực lượng mọi mặt, chuẩn bị cán bộ, vận chuyển vũ khí đạn dược, lương thực, thuốc men; đồng thời đề nghị Bộ điều động thêm lực lượng, tăng thêm trang bị cho bước sau.
  • Bước 2, trên cơ sở bước 1, đến mùa hè 1968, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở Huế, phối hợp cùng toàn miền đánh bại quân địch. Hướng tiến công, phối hợp cùng toàn miền đánh bại quân địch, Khu ủy quyết định lấy Huế làm vùng trọng điểm. Các mặt trận Quảng Trị, Phú Lộc là hướng phối hợp quan trọng, là mặt trận đánh giao thông, chia cắt địch. Đoàn 6 (Phong Quảng) là hướng phối hợp.

Giữa lúc thành ủy Huế và các đoàn đang triển khai kế hoạch chuẩn bị theo tinh thần Nghị quyết Khu ủy thì ngày 19/11/1967 Khu ủy, Quân ủy nhận chỉ thị của Bộ Chính trị và mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về tổng tiến công, tổng khởi nghĩa trong toàn miền. Bản mệnh lệnh xác định “Huế là 1 trong 2 chiến trường trọng điểm của toàn miền (Sài Gòn - Huế). Nhiệm vụ Trị Thiên - Huế là thực hành tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh chiếm thành phố Huế và các thị xã, thị trấn, đánh tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng, tiêu diệt và tiêu hao nhiều quân Mỹ, bao vây cô lập chúng làm cho chúng không ứng cứu được quân ngụy, sẵn sàng đánh địch phản kích, đánh cho chúng bị tổn thất nặng, giữ vững chính quyền cách mạng, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”(1). Thời gian tiến hành tổng tiến công và nổi dậy được quy định bắt đầu vào Tết Mậu Thân (31/01/1968).

Ngày 03/12/1967, Thường vụ Khu ủy họp tại Khe Trái (vùng núi Hương Trà) để nghiên cứu chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương. Khu ủy nhận thấy thời gian quá gấp, phải chuyển kế hoạch tháng 10/1967 bằng một quyết tâm rất cao, nỗ lực rất lớn. Thường vụ Khu ủy hạ quyết tâm “động viên toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong Khu tập trung sức lực và trí tuệ, khẩn trương đẩy mạnh chuẩn bị về mọi mặt, bảo đảm chấp hành triệt để chỉ thị và mệnh lệnh của cấp trên”(2).

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy này, Mặt trận Huế được tổ chức thành 2 cánh (2 mặt trận). Huyện Hương Thủy thuộc cánh Nam, Ban Chỉ huy cánh Nam gồm các đồng chí Thân Trọng Một (Chỉ huy trưởng Đoàn 5), Nguyễn Vạn (Khu ủy viên, Phó Bí thư Thành ủy, Chính ủy Mặt trận cánh Nam) và nhiều đồng chí khác như: Hoàng Lanh, Nguyễn Đình Bảy, Nguyễn Văn, Nguyễn Xuân Ngà (Bí thư Huyện ủy Hương

Thủy) và Lê Hồng Vinh (Bí thư Huyện ủy Phú Vang) được thành lập để

(1), (2) Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập II (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 144 - 146.

chuẩn bị và lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại các quận Tả, Hữu ngạn và các xã của 2 huyện Phú Vang và Hương Thủy[10].

Sau khi tiếp thu nghị quyết cấp trên, đồng chí Xuân Ngà đã triển khai nghị quyết tổng tiến công và nổi dậy trong Huyện ủy và bí thư chi bộ các cơ quan, đơn vị và bí thư các xã. Hội nghị khẳng định cánh Nam là nơi tập trung cơ quan đầu não của ngụy quyền, cơ quan quân sự Mỹ. Vì vậy Hương Thủy có vai trò quan trọng ở trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt xuân Mậu Thân (1968) ở cánh Nam.

Để kịp thời đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng, từ giữa năm 1967, Chi bộ Hương Thọ tuy có một số lần thay đổi về tổ chức, nhưng sự lãnh đạo của chi bộ vẫn luôn được giữ vững, tăng cường. Tháng 5/1967, đồng chí Đơ, Bí thư chi bộ và đồng chí Mai Ngọc Phương được cấp trên điều động tham gia công tác khác, đồng chí Nguyễn Thị Xuân được chỉ định làm Bí thư chi bộ. Đến cuối năm 1967, đồng chí Nguyễn Thị Xuân bị thương phải ra Bắc điều trị, đồng chí Mai Văn Tuận được Huyện ủy chỉ định làm Bí thư chi bộ. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ mọi công tác chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968) đã được quân, dân Dương Hòa khẩn trương xúc tiến[11].

Các thôn của Hương Thọ đã khẩn trương chuẩn bị địa bàn, hành lang để lực lượng tiến công vào các mục tiêu: chuẩn bị lương thực, hậu cần tiếp tế, nuôi dưỡng bộ đội, phục vụ thương binh, tổ chức các đoàn dân công đưa vũ khí, lương thực về phía trước, chuẩn bị hoa tiêu dẫn cánh quân phía Nam vào thành phố… và tăng cường đoàn viên thanh niên vào các đội công tác nội thành. Tại Chiến khu Dương Hòa, trường

Đảng tỉnh đã mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ quân, dân chính 2 huyện, và thành phố Huế. Huyện cũng mở các lớp huấn luyện cho cán bộ cơ sở, với hàng ngàn cán bộ tham gia tập huấn cách đánh trong thành phố.

Với sự chuẩn bị chu đáo, bí mật ở chiến khu Dương Hòa, chiều 30/01/1968, Mặt trận cánh Nam làm lễ xuất quân tại cánh rừng chiến khu. Hàng ngàn người trong các đơn vị vũ trang, chính trị lên đường.

Cánh Nam sông Hương do đồng chí Thân Trọng Một, Thành đội trưởng chỉ huy, đồng chí Nguyễn Vạn, Phó Bí thư Thành ủy làm Chính ủy.

Cánh này chia ra thành hai mũi, từ núi rừng Chiến khu Dương Hòa tiến về Huế. Một mũi do đồng chí Nguyễn Thành Khiêm, Phó Ban an ninh Khu Trị Thiên Huế làm mũi trưởng với cán bộ an ninh khu vào thành phố, 7 chiến sĩ trinh sát vũ trang phối hợp với Tiểu đoàn chủ lực số 815 do đồng chí Đát làm Tiểu đoàn trưởng, đảm nhiệm các mục tiêu quan trọng như bờ Nam thành phố Huế: văn phòng đại diện Bắc Trung Phần, tòa tỉnh trưởng, nhà lao Thừa phủ, Ty sắc tộc và Ty bình định nông thôn.

Mũi này, xuất phát từ căn cứ Lương Miêu, Dương Hòa, Đình Môn (Hương Thọ, Hương Thủy). Chiều ngày 30/01/1968 trên đường hành quân áp sát thành phố, mũi này gặp nhiều trở ngại: bị lạc đường trong đêm tối, khi về đến thôn Cư Chánh (Thủy Bằng) gặp bọn thám báo đi tuần. Ban Chỉ huy quyết định phải diệt ngay bọn này để giữ bí mật cho cuộc tấn công. Vì vậy đoàn quân tập kết chậm so với giờ nổ súng trên toàn thành phố là 2 giờ 33 phút sáng 31/01/1968.

02 giờ 33 phút sáng ngày 31/01/1968, sau khi súng lớn của ta đặt ở bãi Đình Môn bắn vào căn cứ Sư đoàn lính dù 101 của địch ở Ấp 5 (Thủy Phương), căn cứ Phú Bài, khu Tam giác, các lực lượng cánh Nam đã tiến vào các mục tiêu quy định và phát triển thế tiến công.

Ngay từ đầu, bộ đội ta đã vượt qua mọi trở ngại, vượt qua sự phản kích của địch, dũng cảm xông lên, tiến công địch làm thiệt hại nặng Trung đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai, tiêu diệt Tiểu đoàn quân vận ở Nam Giao, đánh chiếm căn cứ quân cụ Lê Lai, Sở chỉ huy Tiểu đoàn bình định, Tỉnh đoàn bảo an, tiêu diệt Sở chỉ huy cảnh sát dã chiến, chiếm khu vực cầu Kho Rèn, ngã Sáu, đánh phá Đài phát thanh, tiêu diệt Đại đội Nam Triều Tiên ở khu vực An Lăng, đánh bọn địch ở Phước Quả, Trường sắc tộc, đánh chiếm khu nhà ga, đánh Tiểu đoàn công binh ở Bồ Ghè, tiến công khách sạn Mỹ - Thuận Hóa và các tiểu đoàn ngụy ở Tam Thai, tiến công và chiếm lĩnh cơ quan đầu não ngụy quyền Thừa Thiên - Tòa tỉnh trưởng, Tiểu khu Thừa Thiên và cơ quan đại diện Bắc trung nguyên Trung phần của ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng nhà lao Thừa Phủ, đưa hơn 2000 người bị địch giam ra ở chùa Tường Vân và chùa Từ Đàm.        

Cùng với tiến công quân sự, nhân dân Dương Hòa đã đóng góp tiền của, lương thực phục vụ Sở chỉ huy và các đơn vị đóng quân trong vùng. Mặc dù địch phản kích dữ dội bằng máy bay, chúng thả bom, nả pháo nát các làng, thôn ở Dương Hòa nhưng nhân dân Dương Hòa vẫn không sờn lòng, đã cùng bộ đội đào hào, công sự chiến đấu, đào hầm trú ẩn, chuẩn bị lương thực, thực phẩm phục vụ bộ đội đánh địch và chuẩn bị hậu cần để đón đoàn quân đánh Huế về lại chiến khu.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968) ở Huế, Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, trong đó có lực lượng vũ trang Dương Hòa đã hoàn thành kế hoạch tiến công nổi dậy do Khu ủy Trị - Thiên Huế giao, có những chỉ tiêu vượt mức, một số công tác đạt yêu cầu cao, đã góp phần xứng đáng vào việc chuẩn bị chiến trường, bảo đảm cuộc hành quân hàng nghìn người bí mật, bất ngờ và an toàn, đưa cuộc chiến tranh nhân dân trong huyện phát triển lên một bước mới.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công nổi dậy xuân Mậu Thân (1968) ở tỉnh, huyện và Dương Hòa đã mở đầu cuộc tiến công nổi dậy đồng loạt của miền Nam anh hùng, bắt đầu chuyển cách mạng miền Nam sang thời kì giành thắng lợi quyết định, là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, bắn phá miền Bắc, phải chịu chấp nhận đàm phán với ta ở Hội nghị Paris[12].

Đối với nhân dân Dương Hòa, đây là thắng lợi đầu tiên trên quy mô lớn từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954 cho đến năm 1968. Trải qua một chặng đường lâu dài đấu tranh kiên trì, từng bước làm nên những thành tích đáng phấn khởi trong các hoạt động quân sự vũ trang và đấu tranh chính trị, quân và dân Dương Hòa đã  đập tan âm mưu “bình định” của địch, làm phá sản thế chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của chúng, làm tròn nghĩa vụ hậu phương cho tiền tuyến.

Sau đòn tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta, Mỹ, ngụy điều động ra Trị Thiên - Huế với một lực lượng cao nhất, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, liên tục mở nhiều cuộc hành quân phản kích lên chiến khu Dương Hòa để ngăn chặn con đường chi viện từ hậu cứ về đồng bằng và đô thị.

Tháng 6/1968, địch mở cuộc hành quân tiêu diệt căn cứ đồi 815 (Khe Rệ)[13], nằm ở ngã ba sông Hai Nhánh. Phía sau đồi 815 là chiến khu của ta. Cây cối ở đồi 815 chằng chịt, chồng lên nhau nhiều tầng nhiều lớp. Với địa hình, địa thế tốt như vậy, sau chiến dịch Mậu Thân, Thành đội Huế chuyển từ địa đạo Hương Thủy ra đồi 815. Trên đỉnh cao nhất là địa đạo Thành đội trưởng Thân Trọng Một. Địa đạo mở 2 cửa, 1 cửa chính, 1 cửa phụ, có thể ẩn núp đến cả 100 người. Giữa hai cánh núi là dòng suối chảy dài từ đỉnh xuống tận chân núi. Ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Thành đội bám vào con suối ấy, mỗi ban làm một nhà thùng, làm hầm chữ A để ở. Hai bờ suối chảy quanh chân núi, các đơn vị kinh tế, thành đội và cả mấy đơn vị biệt động cùng làm nhà để ở. Quần tụ quanh đồi 815 còn có cả Đại đội trinh sát và trạm xá Nam - trạm xá tiền phương của Thành đội (dốc Xương Voi, Dương Hòa) về đóng quân[14]. Trước những đợt càn quyét khốc liệt của kẻ thù vào đây, các cơ quan của ta đóng tại đồi 815 đã quyết định mở đường máu rút khỏi vòng vây của địch. Để hỗ trợ cho cuộc rút lui của cán bộ ta, Trung đội A Lơn (Trung đội đa số là người dân tộc) đã ở lại chiến đấu để che mắt địch, các cán bộ cách mạng, đặc biệt là Thành đội Huế đã bí mật tụt dốc xuống Khe Vịt, tiếp tục di chuyển về tạm trú ở Khe Cối Xay (Dương Hòa)[15]. Đến tháng 8/1968, các đơn vị chủ lực của ta đã rút về Khe Cối Xay sau đó về Khe Vàng[16] (Dương Hòa). Ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đã ngược ra phía sông Hai Nhánh vượt dốc Thanh Niên, về phía Khe Vịt và cuối cùng đứng chân ở Khe Rùa (Dương Hòa)[17]. Tại Khe Rùa, các lực lượng cách mạng đã căng bạt, đào hố cá nhân, xây dựng lán trại, đào các hầm kiên cố nhằm xây dựng địa bàn hoạt động cho cán bộ và chiến sĩ. Trong mưa bom, bão đạn của kẻ thù, với sự giúp đỡ của nhân dân Dương Hòa, các cán bộ cách mạng không hề nao núng, vượt qua muôn vàn gian khổ để tự túc lương thực, thực phẩm, bảo toàn lực lượng và tinh thần chiến đấu chờ thời cơ phản công địch.

Tiếp đó, khu vực Khe Vàng lại bị địch tấn công, các cơ quan và lực lượng vũ trang của ta chuyển lên Khe Xương Voi (gần Mụ Nú) để bám dân hoạt động. Tuy vậy, địa điểm đóng quân ở Khe Xương Voi không tồn tại được lâu, vì ở đây luôn luôn bị máy bay do thám địch nhòm ngó, bỏ bom bắn phá.

Trước tình hình ấy, các đơn vị bộ đội chủ lực của ta tiếp tục lui quân thêm một bước, chuyển về đóng quân ở điểm cao A-te và Tre Linh, còn đại bộ phận cơ quan ban ngành huyện, tỉnh và lực lượng vũ trang xã, huyện vẫn bám trụ ở Khe Vàng, Khe Rùa (địa bàn chiến khu Dương Hòa và vùng giáp ranh Phú Bài, Thủy Phương). Mặc dù không còn đóng quân ở Dương Hòa, phải chuyển lên khu vực các bản dân tộc giáp ranh với nước bạn Lào để bảo toàn lực lượng, nhưng lực lượng bộ đội chủ lực vẫn luôn nhận được sự giúp đỡ, tiếp tế lương thực, thực phẩm từ  nhân dân Dương Hòa.

Tháng 10/1968, Hội nghị mừng công của lực lượng an ninh thành phố tiến hành tại hậu cứ ở Khe Vàng (Dương Hòa) của Hương Thủy[18], giữa lúc Hội nghị  đang họp thì trinh sát báo về: có một mũi quân Mỹ đang sục vào phía Nam khu vực nhà đang họp. Cuộc họp phải dừng lại để các đại biểu chuyển đến địa điểm khác, nhưng địch đã vào quá gần. Trước tình hình nguy cấp, Chi bộ Hương Thọ đã táo bạo có chủ trương chỉ đạo du kích phối hợp với đồng chí Nguyễn Văn Hải, Tiểu đoàn trưởng trinh sát vũ trang đang dự Hội nghị, cùng 3 đồng chí khác cũng là đại biểu tham dự Hội nghị là Hồ Chiêu (an ninh vũ trang), Trần Xuân Điệp (tức Hoàng Thúc Bảo), Đỗ Nam (cán bộ trinh sát vũ trang) chặn đánh kìm chân địch, để các đại biểu rút lui. Các chiến sĩ vừa triển khai trận địa phục kích thì địch cũng vừa kéo đến con suối gần chỗ họp. Lực lượng ta đồng loạt nổ súng vào bọn đi đầu, chúng phải dạt trở lại, đội hình phải co cụm lại. Đồng chí Trần Xuân Điệp đã kịp thời dùng súng B40 bắn tập kích, địch chết chồng lên nhau. Sau khi hoàn hồn, chúng gọi máy bay ném bom dữ dội. Trận này địch chết gần 50 tên, đồng chí Trần Xuân Điệp bị thương nặng mù cả 2 mắt do mảnh đạn cối của địch… Trận chống càn anh dũng này đã tạo điều kiện để các đại biểu (tham dự Hội nghị) có đủ thời gian rút lui, tiếp tục Hội nghị ở vị trí mới, an toàn[19].

Trong những tháng cuối năm 1968, trước những đòn phản kích liên tục của địch, các cơ sở cách mạng của ta ở Dương Hòa gặp nhiều khó khăn. Trước những thách thức lớn như vậy, nhưng Huyện ủy Hương Thủy vẫn có chủ trương tổ chức một số trận đánh vào Sở chỉ huy của địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch để ngăn chặn các cuộc tiến công của địch lên chiến khu.

Dưới sự chỉ đạo cấp trên, đồng chí Thân Trọng Một đã lên kế hoạch và phương án tác chiến để đánh vào Động Hoàng. Sau trận tập kích này, ta đã ngăn chặn phần nào việc địch tổ chức những trận càn lên Chiến khu Dương Hòa. Do những cuộc tập kích liên tiếp của ta vào các chốt chặn hiểm yếu của địch, chúng buộc phải rút khỏi cao điểm 815, ta tổ chức xây dựng lại những điểm chốt phòng ngự suốt một dải từ cao điểm Mang Chang[20] tới dốc Thanh Niên (vùng núi phía Tây của Dương Hòa). Chốt chặn Mang Chang được xem là điểm chốt trọng yếu của địch bị ta đánh lui. Địch quyết tâm chiếm lại, nhưng đã bị các chiến sĩ đặc công của tỉnh và Thành đội Huế kết hợp với du kích Dương Hòa đánh bại, cuối cùng địch phải rút khỏi chốt chặn này.

III. Chi bộ Dương Hòa lãnh đạo phong trào cách mạng từ 1969 - 1973

1. Âm mưu của địch

Từ sau năm 1968, phong trào cách mạng của Dương Hòa (Hương Thọ) tạm thời gặp khó khăn. Đây là thời gian địch liên tục dùng những chính sách thống trị tàn bạo trên mọi lĩnh vực, từ quân sự, chính trị cho đến kinh tế, xã hội, nhằm mục đích khống chế, kìm kẹp nhân dân. Đối với Mỹ - ngụy, việc “bình định” Dương Hòa là một yêu cầu cấp thiết, một nhiệm vụ phải được thực hiện bằng mọi giá, để đánh phá vùng hậu cứ của ta, ngăn chặn sự chỉ đạo, lãnh đạo của tỉnh, huyện đối với các xã vùng dưới. Nhân dân Dương Hòa đứng trước những thử thách lớn và đã thể hiện được lòng yêu nước, trung thành với Đảng, với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Sau thất bại của hai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”“Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam, ngay khi vừa lên cầm quyền (1969), Nixơn đã đề ra một chiến lược mới, gọi là “học thuyết Nixon”, học thuyết này được vận dụng ở Việt Nam thông qua chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, với nội dung trọng tâm là Mỹ tăng cường và hiện đại hóa quân đội ngụy để thay thế quân Mỹ rút dần về nước, nhằm “thay đổi màu da trên xác chết”, “dùng người Việt đánh người Việt”.

Biện pháp chủ yếu của “Việt Nam hóa chiến tranh” là tiến hành hai gọng kìm “bình định” và “tìm diệt” rất khốc liệt. Từ năm 1969, chúng ráo riết tiến hành kế hoạch “bình định cấp tốc” rồi “bình định đặc biệt” nhằm tranh giành lại nông thôn, đồng bằng đã bị ta chiếm giữ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968).

Bằng những cố gắng liên tục về nhiều mặt, Mỹ đã giúp Thiệu xây dựng hệ thống chính quyền cấp xã mạnh và có hiệu lực hơn trong thời kỳ Diệm cầm quyền. Ngày 01/4/1969, Thiệu ra Sắc lệnh số 45/SL/NV quy định tăng cường nhân viên trong Ủy ban hành chính xã, gồm 1 xã trưởng, 2 xã phó (1 hành chính và 1 an ninh), 6 ủy viên (quân sự, canh nông và cải cách điền địa, kinh tài, hộ tịch, thuế vụ, văn hóa và xã hội). Sau đó, trong 3 năm từ 1971 - 1973, ngụy quyền cấp xã được cải tổ 3 lần, lần cuối cùng vào ngày 20/01/1973 nhằm tăng cường quyền lực của tên xã phó phụ trách an ninh và bộ máy quân sự ở cấp xã. Bộ máy ngụy quyền xã Dương Hòa từ năm 1969 cho đến năm 1973 đã nhiều lần cải tổ theo lệnh của Chính quyền Sài Gòn, trong đó tên xã phó an ninh đóng một vai trò quan trọng, nhất là đối với việc khủng bố, hăm dọa, bắt bớ nhân dân.

Đồng thời với những biện pháp trên, Mỹ - ngụy còn đẩy mạnh việc quân sự hóa bộ máy cai trị từ tỉnh cho đến huyện, xã. Kể từ sau tết Mậu Thân, từ 1 đến 2 trung đội dân vệ thường trực có mặt trên địa bàn xã. Bọn chúng đóng chốt ở trụ sở ngụy quyền xã Hương Thọ (ở thôn Đình Môn) và các thôn Dương Hòa, Lương Miêu... Bên cạnh đó còn có lực lượng cảnh sát với nhiều tên gọi khác nhau. Nếu như ở quận lỵ Hương Thủy có Chi cảnh sát ngụy thì ở xã có Cuộc cảnh sát xã do 1 tên sĩ quan cảnh sát cầm đầu, điều khiển cả bộ máy an ninh của xã. Bọn chúng tiến hành theo dõi, phân loại quần chúng trong xã, truy tìm ra các gia đình cách mạng để có biện pháp quản thúc, khống chế, khi cần thì bắt bớ, tra tấn.

Ở Hương Thọ, các thôn Dương Hòa, Lương Miêu địch tiếp tục buộc dân về trại tập trung ở chi khu quân sự Nam Hòa biến 2 thôn này thành hai thôn trắng.

Phối hợp hành động chống phá, đàn áp cách mạng, ngoài lực lượng dân vệ, cảnh sát ngụy còn có các đoàn “Phượng hoàng”, “Thiên nga”. Đây là các tổ chức chống cộng triệt để gây nhiều nợ máu đối với nhân dân.

Với ý đồ giành giật đất đai, kiểm soát nhân dân, hạn chế sự ảnh hưởng ngày càng tăng của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam, Mỹ - Thiệu còn cho xây dựng lực lượng “nhân dân tự vệ” ở khắp nơi trên toàn miền Nam. Ở Dương Hòa, những người từ 16 tuổi đến 59 tuổi, đều buộc phải tham gia lực lượng “nhân dân tự vệ”. Đây là một lực lượng hoạt động theo kiểu bán vũ trang, lấy từ nhân dân để trở lại kìm kẹp, kiểm soát nhân dân. Bọn ngụy quân ở huyện, xã đã tổ chức cho lực lượng “nhân dân tự vệ” học tập chính trị và huấn luyện bán quân sự và bắt buộc hàng đêm luân phiên đi canh phòng, tuần tiểu khắp thôn, xóm…

Rõ ràng là với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, bộ máy ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu từ tỉnh, quận, xã đã “quân phiệt hóa”, “phát xít hóa” đến cao độ, đế quốc Mỹ đã leo đến nấc thang tột bậc về bạo lực phản cách mạng. Với bộ máy đó, một loạt các chương trình, kế hoạch “bình định” với những tên gọi khác nhau được chúng cho thực hiện như “Bình định trọng điểm”, “bình định cấp tốc”, “bình định và phát triển nông thôn”, “phòng vệ cộng đồng và phát triển địa phương”, “bình định và phát triển đặc biệt”... Thực chất là một cuộc chiến tranh toàn diện, hủy diệt con người.

Ngày 26/3/1970, Thiệu công bố luật “người cày có ruộng”, thành lập tại Dương Hòa một Ủy ban cấp phát ruộng đất do tên xã trưởng đứng đầu. Bọn chúng đã tổ chức một buổi lễ phát chứng khoán cho nông dân tại trụ sở ngụy quyền ở thôn Đình Môn.

Thời kì 1969 - 1973, ở Dương Hòa còn có tình trạng tranh chấp, đấu đá giữa các loại đảng phái ngụy quyền. Trong các thôn của xã đều có tổ chức của Đảng Đại Việt, Quốc dân đảng, ai tham gia  trong bộ máy ngụy quyền xã, thôn đều phải gia nhập Đảng Đại Việt hoặc “Quốc dân đảng”. Đến đầu năm 1973, với Sắc luật 60/72, Thiệu tổ chức Đảng “dân chủ”. Hầu hết nhân viên làm việc cho chế độ Mỹ - Thiệu ở Dương Hòa (Thượng Hòa) đều phải tham gia đảng phái phản động này.

Hoạt động của các đảng phái chủ yếu là tranh chấp quyền lực, đấu đá với nhau để giành giật quyền lợi chính trị, kinh tế tại địa phương. Vì thế, nhân dân trong xã đã gán cho chúng cái tên “đảng phái xôi thịt”, hoặc “đảng dân chủ” thành ra “dân chửi”, đúng với bản chất của nó.

Bằng tất cả sự ngoan cố và xảo quyệt của mình, thông qua chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” Mỹ - ngụy đã gây cho ta nhiều khó khăn. Từ năm 1969 trở đi, phong trào cách mạng ở Dương Hòa gặp rất nhiều khó khăn.

2. Phong trào cách mạng của nhân dân Dương Hòa (1969 - 1973)

Đối mặt với những khó khăn, thử thách, đặc biệt là những hoạt động triệt phá, gom dân của kẻ thù, nhân dân Dương Hòa vẫn luôn nêu cao tinh thần vượt khó, kiên quyết đấu tranh, sát cánh cùng Đảng để vượt qua mọi thử thách, từng bước khôi phục lại phong trào và các cơ sở cách mạng, làm bàn đạp tiến lên đánh địch, góp phần tạo nên những chuyển biến mới trên chiến trường. 

Về chính trị, giữa lúc cuộc chiến đấu sống chết với quân thù đang diễn ra ác liệt, ngày 3/9/1969(1), Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy vô cùng đau xót khi nghe tin Bác Hồ qua đời. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Hương Thủy, các tổ chức Đảng ở các địa phương và nhân dân đã tìm cách để tang Bác. Nhiều chùa, khuôn hội Phật giáo ở Hương Thủy nói chung, ở Dương Hòa nói riêng đã khôn khéo tổ chức cầu siêu cho hương hồn của Bác…

Tại chiến khu Dương Hòa, huyện tổ chức lễ truy điệu Bác, có đại biểu các lực lượng vũ trang và các ngành trong huyện. Huyện ủy đã phát động phong trào “Biến đau thương thành hành động cách mạng” quyết tâm khôi phục phong trào cách mạng trong toàn huyện, thực hiện Di chúc của Bác để lại trước lúc đi xa.

Ngày 18/3/1970, Hội nghị Khu ủy Trị Thiên - Huế đã đề ra nhiệm vụ: “Dù bất cứ tình huống nào cũng quyết tâm đánh bại cơ bản chương trình bình định của địch ở nông thôn đồng bằng. Hướng tiến công chủ yếu là vùng giáp ranh” (2).

Giáp ranh là địa bàn bản lề để nối căn cứ địa cách mạng với cơ sở. Nhận rõ vị trí trọng yếu của giáp ranh, huyện Hương Thủy chủ trương: “Đấu tranh chống địch dồn dân, lập ấp bằng mọi cách, giành chính quyền làm chủ cơ sở, làm chủ cho được vùng giáp ranh”3. Huyện ủy đã

  1. Bác Hồ qua đời ngày 2/9/1969 nhưng do yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình cách mạng lúc đó, Đảng phải công bố là Bác mất ngày 3/9/1969.
  2. (3) Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 221-222.

tổ chức lực lượng vũ trang, chính trị đứng chân ở giáp ranh, phát động quần chúng nhân dân thu mua lương thực, thực phẩm cung cấp cho lực lượng bám trụ tại những vùng này. Địch phục kích thường xuyên các đường lên về đồng bằng. Địch phục kích đường này, ta mở đường khác, hạt gạo phải đổi bằng máu của cán bộ, chiến sĩ. Không chỉ các đơn vị, cơ quan đi công tác phải thu gom lương thực ở giáp ranh mà các cơ quan kinh tế tỉnh, khu, huyện đều đã thành lập các “đội thu mua” với thành phần chủ yếu là các chị em phụ nữ. “Đội thu mua” được trang bị súng để tự bảo vệ mình và hoàn thành nhiệm vụ đưa lương thực, thực phẩm, súng đạn lên chiến khu[21].

Để đẩy mạnh nhiệm vụ chống phá các kế hoạch bình định nông thôn của địch ở đồng bằng, tháng 10/1970, Hội nghị Khu ủy và Thành ủy Huế đã đề ra nội dung xây dựng 4 nhân tố cơ bản: xây dựng cơ sở Đảng, xây dựng lực lượng du kích bí mật, xây dựng cơ sở quần chúng, xây dựng địa bàn lõm.

Đảng bộ Hương Thủy sau khi làm chủ được vùng giáp ranh, đã xây dựng được 4 nhân tố mới ở nhiều xã. Một số đảng viên hoạt động hợp pháp được bổ sung vào Huyện ủy. Các đồng chí Huyện ủy viên mật được bố trí về lãnh đạo các chi bộ mật ở các xã.

Tại Dương Hòa (Hương Thọ), từ giữa năm 1969, chi bộ đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đòi trở về làng cũ. Cuộc đấu tranh đã huy động được hơn 500 người tham gia đến bao vây quận lỵ Nam Hòa. Địch buộc phải nhượng bộ để nhân dân trở về làng cũ. Để lãnh đạo phong trào đấu tranh có hiệu quả, Huyện ủy Hương Thủy đã cử đồng chí Nguyễn Thị Mười, một trong những thanh niên lớp đầu tiên của xã Hương Thọ thoát li tham gia chống Mỹ, cứu nước đang công tác ở Ban Dân vận Khu ủy Trị Thiên - Huế trở lại hoạt động tại địa bàn trọng yếu này và giữ chức Bí thư xã. Nhờ sự nuôi dưỡng bao bọc, chở che của nhân dân, đồng chí Nguyễn Thị Mười đã bám được địa bàn, móc nối lại với các cán bộ Đảng  từng bước xây dựng lại cơ sở, tổ chức quần chúng, du kích trong xã[22].  

Nhờ các tổ chức Đảng bám sát cơ sở, lãnh đạo phong trào quần chúng đã tạo điều kiện cho cán bộ tỉnh, huyện bám trụ hoạt động trên địa bàn, tạo thành những địa bàn lõm ở các thôn của các xã Hương Thọ, Nguyên Thủy… Đến cuối năm 1970, bốn nhân tố mới đã được xây dựng cơ bản ở các xã trong toàn huyện. Tại Dương Hòa (Hương Thọ), chi bộ xã đã xây dựng được một tổ chức Đảng bên trong thôn Đình Môn. Trong thời gian này với sự phát triển khá mạnh về số lượng đảng viên, tổ chức rộng khắp nên Chi bộ Hương Thọ được nâng lên thành Đảng bộ, do đồng chí Nguyễn Thị Mười làm Bí thư Đảng ủy xã.  

Năm 1970, Huyện ủy đã tổ chức cho đảng viên học tập 7 yêu cầu của cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên để được kết nạp “lớp đảng viên Hồ Chí Minh. Cuộc vận động này đã tạo nên sức mạnh mới để Đảng bộ Hương Thủy, Đảng bộ Dương Hòa (Hương Thọ) phấn đấu thực hiện Di chúc của Bác Hồ[23] và đẩy mạnh các phong trào đấu tranh trên các mặt.

Về quân sự, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Hương Thủy đã củng cố lại tổ chức, do đồng chí Nguyễn Xuân Ngà làm Bí thư. Lực lượng vũ trang được tổ chức lại thành đại đội tập trung, do đồng chí Sơn làm Huyện đội trưởng. Ở mỗi xã hình thành 1 đội biệt động, các tổ du kích mật. Các đồng chí trong Thường vụ Huyện ủy, Ban Chỉ huy Huyện đội đã về tận cơ sở, bám dân, bám đất ở các địa bàn Khu 1, 2, 3 để hoạt động[24].

Tại Dương Hòa, Chính quyền Sài Gòn liên tục tổ chức các đợt hành quân càn quét lên địa bàn chiến lược này. Nguy hiểm hơn, Mỹ còn rải thảm bom B52, chất độc hóa học làm cho cả một vùng rừng núi hoang tàn, trơ trọi. Thảm thực vật che chắn cho các căn cứ kháng chiến của ta không còn đã gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của cán bộ, chiến sĩ ta. Nhưng trong tình thế đó, tổ du kích xã Dương Hòa (Hương Thọ), cán bộ cơ sở vẫn kiên cường bám trụ, giữ vững tuyến hành lang chiến lược, đảm bảo sự chỉ đạo của cấp trên, vừa thực hiện tốt việc vận chuyển vũ khí, đạn dược do trên chi viện về, vừa mang cán thương binh từ dưới  đồng bằng lên chiến khu[25].    

Trong năm 1971, những trận đánh của quân và dân ta vào các cứ điểm trong hệ thống cụm cứ điểm chốt chặn dọc sông Tả Trạch của địch đã gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, từng bước làm suy yếu các cứ điểm của địch bao bọc phía Tây Hương Thủy (tức phía Đông Dương Hòa).

Trước tình hình ngày càng có nhiều thuận lợi cho cách mạng, đặc biệt là sau thất bại của địch trong cuộc hành quân “Lam Sơn 719”, ngày 11/3/1972, Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam. Hướng tiến công chủ yếu là chiến trường Trị - Thiên Huế, vì đây là hướng có tầm quan trọng chiến lược đối với toàn miền Nam. Mặc dù đế quốc Mỹ thua đậm ở nhiều chiến trường nhưng chúng vẫn tập trung quân cố giữ cho được vùng này. Để thực hiện quyết tâm chiến dịch, ngày 13/3/1972, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch lấy tên là Bộ Tư lệnh 702 và giao nhiệm vụ: “Tiến hành chiến dịch tổng hợp, hợp đồng binh chủng, tấn công vào tuyến phòng ngự của địch ở Trị Thiên, tiêu diệt bộ phận quan trọng của sinh lực địch, phối hợp giữa đòn tiến công của chủ lực với phong trào nổi dậy của quần chúng giải phóng tỉnh Quảng Trị tạo điều kiện và nắm thời cơ có lợi giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên Huế, phối hợp với các chiến trường bạn làm thay đổi cục diện chiến tranh”.

  Chấp hành lệnh của Quân ủy Trung ương, ngày 22/3/1972, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 702 đã vạch ra chiến dịch với chủ trương mở 2 chiến trường kế tiếp, hướng chính là mặt trận Quảng Trị, hướng phối hợp là Thừa Thiên Huế.

Từ ngày 30/3 đến ngày 01/5/1972, quân và dân ta lần lượt quét sạch tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch ở Đường 9, rồi đập tan tập đoàn phòng ngự kiên cố của chúng ở Đông Hà - Ái Tử - La Vang - Quảng Trị, giải phóng tỉnh Quảng Trị, quân địch ở Huế vô cùng hoảng loạn.

Từ cuối tháng 6/1972, địch vượt sông Mỹ Chánh hòng chiếm lại Quảng Trị. Tại chiến trường Thừa Thiên Huế, địch tăng quân đánh chiếm các địa bàn chiến lược, tăng cường đánh phá ta về mọi mặt nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi quần chúng, thiết lập vành đai phòng thủ giữ Huế.

Trước những hành động đánh phá của kẻ thù, để tiếp tục giữ vững phong trào cách mạng ở Dương Hòa, theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, Huyện đội Hương Thủy đã điều đồng chí Trần Quang Minh trực thuộc biên chế Đại đội 1, Đội đường dây lên làm Đội trưởng Đội công tác của Dương Hòa (Hương Thọ). Tham gia Đội công tác Dương Hòa có các đồng chí: Truy, Võ Thị Chanh, đồng chí Cau (Thủy

Bằng), đồng chí Thúy… Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Quang Minh, Đội công tác Dương Hòa đã không ngại khó khăn, gian khổ và hi sinh để tích cực hoạt động vừa đánh địch vừa triển khai xây dựng phong trào và hoạt động cách mạng. Tiêu biểu như tấm gương chiến đấu hi sinh của nữ đồng chí Thúy (Đình Môn)[26].

Với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược xuân - hè năm 1972 và thắng lợi của trận “Điện Biên Phủ trên không”, Mỹ buộc phải kí Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27/01/1973. Sau Hiệp định Paris, ta tổ chức những cuộc đấu tranh chống việc địch lấn chiếm đất đai, nhằm đẩy lùi việc địch lấn chiếm tiến sâu vào chiến khu Dương Hòa. 

Thực hiện Chỉ thị trên, Đại đội 1 bộ binh và Đại đội 3 đặc công Hương Thủy đã tổ chức nhiều trận tập kích vào các điểm cao, các căn cứ của địch ở dọc bờ sông Tả Trạch, khiến địch không có thời gian nghỉ, phải liên tục đối phó với các lực lượng của ta.

Công tác binh vận trong năm 1973 rất được chú trọng. Bằng sự thông minh, khôn khéo, cán bộ, nhân dân Hương Thủy đã vận động và lôi kéo được đông đảo binh lính địch đứng về phía cách mạng. Ngày 19/5/1973, lực lượng vũ trang Hương Thủy do đồng chí Võ Nguyên Quảng (Huyện đội trưởng) và đồng chí Lê Hữu Tòng (Huyện đội phó) đã vận động 1 đại đội thuộc E54 bộ binh địch đóng tại căn cứ Mỏ Tàu cùng tổ chức bữa cơm hòa hợp tại sân bay dã chiến “Cưa”[27] và đã vận động được đại đội này bỏ súng về với cách mạng. Tham gia bữa cơm thân mật này ngoài các đồng chí lãnh đạo Huyện đội Hương Thủy còn có 2 Đại đội 1 và 3 (C1 và C3) của ta và 1 đại đội thuộc E54 của địch[28].

 

Mỏ Tàu, nơi địch làm sân bay dã chiến “Cưa”.

IV. Đảng bộ lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh đấu tranh cách mạng, góp phần giải phóng quê hương, đất nước.

1. Chi bộ Dương Hòa lãnh đạo nhân dân phối hợp các lực lượng huyện, tỉnh đánh trả địch phá hoại Hiệp định Paris (1973 - 1974)

Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” được kí kết tại Paris vào ngày 27/01/1973 là một thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Bất chấp Hiệp định Paris, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu với viện trợ của Mỹ đã phản kích, lấn chiếm vùng giải phóng, phân tuyến, phân vùng, tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra xa, đánh phá cơ sở, kìm kẹp quần chúng để ổn định hậu phương. Chúng tuyên bố “Chính quyền Sài Gòn không chịu ràng buộc bởi Hiệp định Paris”(1).

Ở Thừa Thiên Huế, chúng mở nhiều cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, rải quân đóng chốt lập tuyến phòng ngự mới, ráo riết bình định, thanh lọc, đánh phá cơ sở cách mạng, làm cho lực lượng ta suy yếu để lập tuyến phòng thủ đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân, bảo vệ cơ quan đầu não của chúng ở Huế.

Tại Hương Thủy, địch ráo riết thực hiện âm mưu ngăn chặn, bình định hết sức khốc liệt. Chúng tăng cường lực lượng đóng chốt ở Bắc Mỏ Tàu, Đá Đen, La Hy và rải quân ngăn chặn, đóng chốt vùng đồi trọc Khu 1, Khu 4. Chúng tập trung lực lượng dân vệ, bảo an trên tuyến đường số I kết hợp với Trung đoàn chủ lực 54 đánh phá các xã giáp ranh đồng thời tổ chức nhiều cuộc hành quân cảnh sát, đánh phá ta bằng hiều hình thức như: gài mìn, phục kích kết hợp với bộ binh, xe tăng uy hiếp vùng đồi trọc để chia cắt hành lang tuyến giữa, lấn chiếm mở rộng phạm vi kiểm soát lên vùng sát núi. Sư đoàn I bộ binh ngụy càn quét vào Khe Vàng (Dương Hòa) nhằm “tiêu diệt” căn cứ kháng chiến của ta và đẩy lực lượng vũ trang, chính trị huyện Hương Thủy ra khỏi vùng giáp ranh(2).

Huyện ủy Hương Thủy đã đẩy mạnh thực hiện chủ trương sử dụng“Hiệp định Paris như là vũ khí tấn công trong tình hình mới”(3).

Tháng 3/1973, trước tình hình địch vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Paris, Khu ủy Trị Thiên Huế chủ trương: “…phải chuẩn bị chu đáo để đánh địch lấn chiếm”. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, lực lượng vũ trang Hương Thủy cùng với các đơn vị Quân khu, tỉnh liên tục đánh các chốt lấn chiếm của địch ở Mỏ Tàu, Đá Đen, La Hy, để bảo vệ vùng hậu cứ cách mạng và mở đường tiến công giải phóng Hương Thủy và toàn tỉnh trong năm 1975(4).

(1) (2) (3) (4) Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 137.

Tại Dương Hòa (Hương Thọ, Hương Thủy), Đội công tác xã đã kết hợp với các cơ sở bên trong tiến hành vận động nhân dân hạ cờ địch, cắm cờ cách mạng để ngăn địch đẩy mạnh bình định, lấn chiếm và mở rộng vùng giải phóng của ta. Cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra gay gắt trong thế giằng co quyết liệt giữa hai bên. Ban đêm ta cắm cờ cách mạng, sáng đến địch lại nhổ cờ của ta và treo cờ ba que của chúng[29].

Lực lượng cách mạng Dương Hòa cũng đã tích cực phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, thành phố tham gia nhiều trận đánh tập kích vào các đồn địch. Điển hình là trận tập kích vào đồn Tân Ba - Lụ vào tháng 3/1973 tiêu diệt 42 tên địch; trận đánh tập kích đồn địch ở Đình Môn vào tháng 7/1973, tiêu diệt 19 tên làm cho âm mưu lấn chiếm của địch bị thất bại[30].

Dựa vào thế hợp pháp của Hiệp định Paris, công tác binh vận đã được đẩy mạnh. Cơ sở cách mạng của ta ở Hương Thọ đã vận động hàng trăm đội viên phòng vệ dân sự bỏ tuần tra, canh gác, không thi hành mệnh lệnh của chính quyền xã như ở các thôn Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn… Cơ sở nội tuyến được phát triển, nhất là trong hàng ngũ lính bảo an, dân vệ.

Tháng 10/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đề ra đường lối, nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong tình hình mới” [31].

Đầu năm 1974, Khu ủy Trị Thiên Huế, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã mở Hội nghị “quán triệt quan điểm bạo lực, xác định nhiệm vụ trung tâm là đánh phá bình định, chống lấn chiếm, phá chủ trương phân tuyến, phân vùng của địch, giành dân, giành quyền làm chủ, xây dựng lực lượng cách mạng ở nông thôn, đồng bằng xây dựng vùng giải phóng, vùng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện”3.

Lực lượng vũ trang Hương Thủy dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy đã vượt qua mọi gian nan, thử thách, thực hiện nghị quyết cấp trên, liên tục tiến công địch. Từ tháng 3/1974 trở đi các lực lượng vũ trang huyện phối hợp với lực lượng Quân khu liên tục mở các đợt tiến công địch để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị ở Dương Hòa.

Tháng 8/1974, các trận chiến đấu ở khu vực đường 14, La Sơn, Mỏ Tàu diễn ra vô cùng ác liệt, quân dân ta đã chiếm lĩnh, làm chủ các điểm cao 75, 76, 303, 144, 204, 273… Địch liên tiếp điều lực lượng chi viện nhưng đã bị quân dân Hương Thủy tiêu diệt, tiêu hao, buộc chúng phải điều chỉnh thế trận, hình thành thế phòng thủ mới để ngăn chặn ta tiến công.

Tại khu vực Mỏ Tàu, sau khi Tiểu đoàn bộ binh 2, Trung đoàn bộ binh 51 và Tiểu đoàn bộ binh 1, Trung đoàn bộ binh 3  của địch bị ta tiến công đánh thiệt hại nặng, chúng đã đưa hai tiểu đoàn bộ binh khác lên thay, điều chỉnh lại đội hình phòng ngự để giữ vững tuyến phòng ngự phía Tây, đề phòng quân ta từ chiến khu tiến công xuống đường I, hoặc tổ chức các lực lượng phản kích đánh chiếm lại một số địa hình quan trọng. 

Để đập tan mưu đồ của kẻ thù, đúng 5 giờ 10 ngày 27/9/1974, các lực lượng của ta tại các hướng đã hợp đồng tác chiến đồng loạt tiến công các căn cứ của địch, tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt và chống trả các đợt phản kích của địch ở khu vực Mỏ Tàu và đường 14, phía Tây sông Truồi. Đến 10 giờ ngày 28/9/1974, ta hoàn toàn làm chủ chiến trường, đánh thiệt hại nặng lực lượng của địch, tiêu diệt 276 tên, làm bị thương 90 tên, bắt sống 28 tên, thu 7 khẩu M79, 4 khẩu đại liên, 143 khẩu AR15, 3 máy bay PRC25, 3 súng ngắn, 1 đồng hồ, ta đã làm chủ hoàn toàn khu vực Mỏ Tàu, đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch, giữ vững khu vực địa hình rất có giá trị về chiến thuật, tạo thế thuận lợi cho các chiến dịch tấn công xuống đồng bằng sau này(1).

Như vậy, từ đầu năm 1974 đến tháng 9/1974, lực lượng chính trị ở Dương Hòa đã phối hợp cùng lực lượng vũ trang các cấp đánh địch trên 40 trận ở khu vực Mỏ Tàu, hỗ trợ tích cực phong trào cách mạng của quần chúng trong huyện, góp phần khống chế trực tiếp căn cứ Phú Bài và Quốc lộ I đoạn từ Huế đi Đà Nẵng.

2. Dương Hòa trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975

Tháng 10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, sau khi phân tích tình hình cách mạng miền Nam, nhận rõ thời cơ chiến lược giành thắng lợi càng đến gần Hội nghị đã ra nghị quyết: “Quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976”(2).

Thực hiện chủ trương của Đảng và Khu ủy Trị Thiên Huế về quyết tâm chiến lược, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đề ra nhiệm vụ năm 1975 cho quân dân toàn tỉnh: “Đánh bại cơ bản kế hoạch bình định” của địch giành quyền làm chủ ở nông thôn, đồng bằng(3).

Hương Thủy là huyện cửa ngõ phía Nam thành phố Huế, có trung tâm  Phú Bài ven trục Quốc lộ 1A nên địch phân tuyến, phân vùng ngăn chặn rất ác liệt. Ở thôn, xóm địch khủng bố, bình định khốc liệt, đường hành quân từ giáp ranh về đồng bằng gặp nhiều trở ngại, công tác hậu cần trong dân khá phức tạp, gay go vì thế  hoạt động của Đội công tác ở các xã giáp ranh cũng gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Huyện

  1. Bộ Tư lệnh quân khu 4, Đảng ủy – Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Những trận đánh trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên địa bàn Thừa Thiên Huế (1945 - 1975), tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 200 - 235.
  2. (3) Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 141, 142.

4 Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 142.

ủy đã tổ chức học tập, động viên, quyết tâm“Đi vào trận đánh cuối cùng” và chuẩn bị tư tưởng “Cuộc chiến đấu ở Huế giằng co, giành giật trước những đòn phản kích quyết liệt của kẻ thù”4 cho đông đảo cán bộ và nhân dân Hương Thủy.

Lực lượng vũ trang Hương Thủy được tổ chức, bổ sung gần 2 đại đội vũ trang huyện (C1, C3), 10 đội vũ trang công tác, 4 trung đội vũ trang, 100 du kích các quận miền núi. Tham gia chiến đấu có Tiểu đoàn 4 bộ binh, 1 Đại đội đặc công của tỉnh. Công tác cán bộ được chú trọng bố trí từ cán bộ tiểu đội đến Huyện đội.

Đến tháng 02/1975, công tác chuẩn bị của ta đã hoàn thành, lực lượng vũ trang và các đội công tác quyết tâm cao, sẵn sàng ra trận với tinh thần kiên cường, dũng cảm tiến công địch, thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng giải phóng quê hương.

Trong đợt 1 (từ 09/3/1975 - 15/3/1975), đồng chí Vũ Thắng - Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã về bám trụ chỉ đạo phong trào ở thôn Thượng Lâm, xã Mỹ Thủy (Thủy Phương).

Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các ban ngành cấp trên, quân dân Hương Thủy tràn đầy quyết tâm tiến lên đánh địch để hỗ trợ cho hướng tiến công của ta ở các mặt trận Tây Nguyên và Quảng Trị.

Tối ngày 08/3/1975, lực lượng vũ trang Hương Thủy gồm Đại đội 1 bộ binh, Đại đội 3 đặc công do đồng chí Lê Hữu Tòng chỉ huy, cùng với lực lượng chủ lực của tỉnh, Thành đội, An ninh thành phố, và lực lượng vũ trang Phú Vang đang đóng quân ở Dương Hòa đã xuất phát ra cửa rừng ở Khe Vàng, vượt đoạn sông gần thác Hộ, thác Dòng rồi băng qua mỏm Đá Đen, La Hy để về tiếp cận với các mục tiêu đã được phân công.

Rạng sáng ngày 09/3/1975, trên hướng tấn công của Hương Thủy, các đơn vị chủ lực huyện đã tiếp cận được địa bàn các xã một cách an toàn. Ngay sau khi về đứng chân ở đồng bằng, tại các thôn Lang Xá Bàu, Vân Thê, Lang Xá Cồn của xã Thủy Thanh; thôn Nhất Đông xã Thượng Hải; thôn Lợi Nông xã Thủy Phương; thôn Chánh Động xã Thủy Châu, các lực lượng vũ trang Hương Thủy đã đồng loạt nổ súng tiêu diệt và bắt sống toàn bộ bọn ác ôn, ngụy quân, ngụy quyền đang chiếm đóng tại đây, tiến lên làm chủ một số thôn xóm.

Ngày 11/3/1975 với chiến thắng vang dội của quân và dân ta trên mặt trận Tây Nguyên, đã tạo thế cho quân dân Thừa Thiên Huế nói chung và quân dân Hương Thủy cũng như Dương Hòa nói riêng vượt qua mọi trận phản kích quyết liệt của kẻ thù, củng cố lực lượng, tinh thần cho đợt tiến công mới.

Ngày 17/3/1975, Thường vụ Khu ủy Trị Thiên Huế nhận định: “Thất bại ở Tây Nguyên và bị uy hiếp mạnh ở Trị Thiên, địch đang dao động mạnh, thời cơ mới đã xuất hiện” [32]. Trong lúc địch đang chuẩn bị thực lực cho cụm chiến lược mới để giữ Huế, Đà Nẵng, đêm 18 rạng sáng ngày 19/3/1975 lực lượng vũ trang giải phóng đã nổ súng tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ của địch tại Quảng Trị.

Ngày 19/3/1975, Thường vụ Khu ủy Trị Thiên Huế họp quyết định phương án giải phóng Thừa Thiên Huế. Với tinh thần: “Một ngày bằng 20 năm”[33], quân dân Thừa Thiên Huế tiến quân vào chiến dịch quyết chiến quyết thắng.

Sáng ngày 21/3, Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công hệ thống phòng ngự của địch ở phía Nam Thừa Thiên Huế, cắt đứt giao thông Huế - Đà Nẵng, chính thức mở màn chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tiếp tục tiến công các cao điểm địch ở giáp ranh.

Trong khí thế khẩn trương của giờ khắc lịch sử giải phóng quê hương, tại Dương Hòa, Đội công tác đã tích cực phối hợp với các cơ sở bên trong, chuẩn bị kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

Vào lúc 20 giờ ngày 23/3/1975, đồng chí Lê Hữu Tòng cùng cán bộ, chiến sĩ trong Đội công tác xã Dương Hòa đã bắt liên lạc được với một số cán bộ của Trung đoàn 271, Trung đoàn 6 và Sở chỉ huy tiền phương của Quân khu ở đồi thông, lăng Gia Long. Được sự giúp đỡ của các lực lượng cơ sở tại địa phương, đến 23 giờ, các các đơn vị vũ trang và lãnh đạo đã triển khai lực lượng về các vị trí giấu quân an toàn.

Sáng ngày 24/3/1975, hòa chung trong khí thế nổi dậy, tiến công của quân dân Hương Thủy, lực lượng du kích Dương Hòa đã tích cực phối hợp với lực lượng của Huyện đội dẫn đường đưa Trung đoàn 6, Trung đoàn 271 tiến thẳng vào các làng Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm. Tại đây, lực lượng chủ lực này đã được nhân dân nồng nhiệt đón tiếp, hỗ trợ lương thực, thực phẩm và các phương tiện di chuyển để sang sông tiến về đồng bằng giải phóng thành phố. Ngày 24/3/1975, huyện Hương Thủy hoàn toàn giải phóng[34].

*        *

*

Trải qua 21 năm (từ năm 1954 - 1975) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ xã Dương Hòa (Hương Thọ) đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi gian nan, thử thách, kiên cường, bền bỉ chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ địch trên quê hương.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do hoàn cảnh lịch sử cụ thể, do thế trận, phương tiện kĩ thuật phục vụ chiến tranh thay đổi, Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế không còn chọn Dương Hòa để xây dựng chiến khu; mặc dầu vậy, Dương Hòa vẫn được chọn làm nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo huyện Phú Vang, Hương Thủy, Thành đội Huế, Tỉnh đội và lực lượng vũ trang của huyện, tỉnh, Trung ương. Không chỉ là hậu phương kháng chiến của tỉnh, mà Dương Hòa còn là bàn đạp để quân và dân ta tiến về Huế, đồng bằng Phú Vang, Hương Thủy trong tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968) và chiến dịch Huế - Đà Nẵng xuân 1975. Do vậy, kẻ thù chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ bắn phá, tiêu diệt địa bàn chiến lược này.

Mặc dù, phải hứng chịu các trận mưa bom, bão đạn của kẻ thù, nhưng nhân dân Dương Hòa chưa bao giờ nản chí, sờn lòng, vẫn kiên trì bám trụ các khe, đồi đào hầm ẩn nấp để đấu tranh, tăng gia sản xuất, vận chuyển lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm từ miền xuôi lên căn cứ địa cách mạng, góp phần bảo đảm mọi hoạt động cho chiến khu, cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và các cơ quan, ban, ngành của tỉnh, huyện… Về cơ bản Dương Hòa đã làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn của cách mạng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ, đảng viên, quân và dân Dương Hòa đã vận dụng một cách linh hoạt, thông minh sáng tạo những hình thức đấu tranh theo phương châm kết hợp đánh địch bằng “2 chân và 3 mũi giáp công”, làm nên những thắng lợi  quan trọng như: trong phong trào đồng khởi đồng bằng (1964), khi được chọn làm địa bàn chỉ đạo điểm của toàn tỉnh; trong phong trào đấu tranh chống địch gom dân, làng La Khê Trẹm là làng duy nhất của vùng chiến khu mà địch không gom vào được các ấp chiến lược; đặc biệt là với bữa cơm hòa hợp dân tộc ngày 19/5/1973 giữa 1 Đại đội của Trung đoàn bộ binh 54 ngụy với 2 Đại đội (1 và 3) của Huyện đội Hương Thủy… đã cho thấy sự khéo léo trong việc vận dụng, kết hợp hình thức đấu tranh chính trị, binh vận và quân sự hết sức hiệu quả của quân và dân Dương Hòa.

Với những thắng lợi mà quân và dân Dương Hòa đạt được, đã góp phần tô thắm truyền thống “Tấn công - nổi dậy - anh dũng - kiên cường” trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Thừa Thiên Huế, góp phần xứng đáng giải phóng quê hương, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện được ước mơ hàng ngàn đời của nhân dân là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân chủ và giàu mạnh.

Có thể khẳng định rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Dương Hòa chính là hình ảnh thu nhỏ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của tỉnh Thừa Thiên Huế.

Trải qua các chặng đường lịch sử gian nan chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Dương Hòa đã đem hết sức lực và trí tuệ của mình để giải phóng quê hương, đất nước. Cống hiến lớn nhất của Dương Hòa trong 2 cuộc kháng chiến là không bao giờ rời trận địa, vẫn luôn kiên trì bám trụ quê hương tiến hành sản xuất và chiến đấu để bảo vệ chiến khu, bảo vệ cán bộ lãnh đạo Trung ương, tỉnh, huyện, bảo vệ các cơ quan các cấp về đứng chân ở đây để chỉ đạo phong trào, trở thành hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn của tỉnh, huyện.

Để ghi nhận công lao to lớn của nhân dân Dương Hòa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng và Nhà nước đã phong tặng 2 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương kháng chiến và Bằng khen các loại cho các cá nhân và tập thể ở Dương Hòa. Ngày 29/01/1996, Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số 761/QĐ/CTN phong tặng Danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Dương Hòa.

 

[1] Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1999), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên – Huế, Tập II (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 101.

[2] Các chức danh khác của Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng Hương Thọ xem Phụ lục 3.

[3] Tư liệu Lịch sử Đảng bộ Hương Thủy (1930 - 2010), Huế tháng 4/2015 trang 63, 64 và Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ hai, ngày 05 tháng 5 năm 2016, (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa). (3) Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 185 - 188.

[4] Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 191 - 194.

[5] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ hai, ngày 05 tháng 5 năm 2016, (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa). (2) Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 195 - 197.

[6] Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử Lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 104 - 105.

[7] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ hai, ngày 05 tháng 5 năm 2016, (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa).

[8] Bộ Nội vụ, Công an Tỉnh Thừa thiên Huế (1995), Công an nhân dân Thừa Thiên Huế lịch sử biên niên (1954 - 1975), trang 100 -101.

[9] Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập II (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 143-145.

[10] Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 148.

[11] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, bản đánh máy, trang 67.

[12] Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 206 – 208.

[13] Có tên đồi 815 vì đây là nơi trú chân của Tiểu đoàn 815 (chủ lực của tỉnh).

[14] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ nhất, ngày 07 tháng 12 năm 2015, (Văn phòng – Đảng ủy xã Dương Hòa).

[15] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ nhất, ngày 07 tháng 12 năm 2015, (Văn phòng – Đảng ủy xã Dương Hòa).

[16] Gọi Khe Vàng vì hai bên bờ suối tràn về những bãi cát nhỏ vàng rực.

[17] Gọi là Khe Rùa vì dọc con suối này có rất nhiều rùa. Nguyễn Quang Hà, Thân Trọng Một con người huyền thoại, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hóa, trang 137, 139.

[18] Khe Vàng trước năm 1961 là địa danh của Hương Thọ, Hương Trà nhưng từ 1961 Tỉnh chỉ đạo cắt xã Hương Thọ nhập vào Hương Thủy và do Hương Thủy chỉ đạo, quản lý. Vì vậy Khe Vàng lúc này là địa danh của Dương Hòa, Hương Thủy.

[19] Bộ nội vụ - Công an tỉnh Thừa Thiên Huế (1996), Lịch sử công an nhân dân Thừa Thiên Huế (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 195 - 196.

[20] Đồn Mang Chang trước đây là chốt chặn của địch khống chế cả vùng chiến khu của ta. Sau thất bại của chiến dịch Lam Sơn 719, địch rút bỏ chốt chặn này.

[21] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 221-222.

[22] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế tháng 4/2015, bản đánh máy, trang 73-74.

[23] Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 225-226.

[24] Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 122-123.

[25] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lầ thứ hai, ngày 05 tháng 5 năm 2016, (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa).

[26] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lầ thứ hai, ngày 05 tháng 5 năm 2016, (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa).

[27] Sân bay “Cưa” là tên gọi của bộ đội ta về sân bay dã chiến do địch cưa một số cây rừng để làm sân bay quân sự.

[28] Đình Đính, Phóng sự Chiến khu Dương Hòa, tài liệu đánh máy, trang 11 (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa).

[29] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ hai, ngày 05 tháng 5 năm 2016, (Văn phòng Đảng ủy xã Dương Hòa).

[30] Ban Chấp hành Chi bộ xã Dương Hòa, Báo cáo thành tích đề nghị trên công nhận danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang của Đảng bộ và nhân dân xã  Dương Hòa, bản đánh máy, trang 5.

[31] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 139, 140.

[32] Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 143, 144.

[33] Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử Lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 143, 144.

[34] Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử Lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 143, 144.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 2.112.244
Truy cập hiện tại 1.208