Tìm kiếm tin tức
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN DƯƠNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954
Ngày cập nhật 11/04/2019

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN DƯƠNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954

I. Quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở Dương Hòa (1930 - 8/1945)

Với vị thế là địa bàn chiến lược quan trọng, điểm tiếp giáp với thành phố Huế - thủ phủ xứ Trung Kỳ bảo hộ, nên chính sách đô hộ của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Dương Hòa[1] rất hà khắc. Bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã khá hoàn chỉnh. Đứng đầu huyện là Tri huyện. Ở tổng có các Chánh- Phó tổng. Dưới xã, ấp là bọn lý, hương và địa chủ cường hào… chiếm đoạt công điền, công thổ, tham nhũng công quỹ, ức hiếp nông dân. Nhân dân Dương Hòa không có quyền tự do dân chủ nào.

 Không thể cam chịu cảnh cùng cực, một số thanh niên có chí hướng ở Dương Hòa đã bắt đầu đi tìm hiểu thời cuộc qua sách báo, qua các cuộc tiếp xúc với những nhà yêu nước tại Huế.

Cuối năm 1929, nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hóa để chuyển sang Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập Chi bộ đảng Đông Dương Cộng sản liên đoàn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc tuyên truyền giác ngộ một số thanh niên yêu nước ở Dương Hòa đi theo con đường cách mạng mới.

Ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở Thừa Thiên Huế, tháng 4/1930, tại Bến Ngự (Huế), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh được tiến hành. Hội nghị tuyên bố hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Đồng chí Lê Bá Dị được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời, trực tiếp chỉ đạo 3 huyện phía Nam, trong đó có Hương Thủy.

Sau ngày 01/5/1930, các đồng chí đảng viên chủ chốt trực tiếp đi vào nông thôn, miền núi vận động nông dân, tập hợp họ vào tổ chức nông hội, đấu tranh chống bọn cường hào, ác bá.

Ngày 18/6/1931, nhân kỉ niệm ngày Gia Long lên ngôi, nhiều truyền đơn được rải khắp Dương Hòa để vạch mặt bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nhân dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi quyền sống.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tháng 10/1939, địch thực hiện cuộc khủng bố trắng ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên ở Hương Thủy đều bị bắt. Hệ thống cơ sở bị phá vỡ, phong trào cách mạng ở Hương Thủy bị tổn thất nặng nề, còn lại một vài đồng chí và cơ sở phải rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo duy trì những hoạt động của Đảng sau này.

Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vượt ngục trở về triệu tập Hội nghị cán bộ đảng tại Quảng Điền, triển khai Nghị quyết Trung ương VIII. Hội nghị quyết định củng cố các tổ chức đảng để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.

Ngày 23/5/1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị ở Đầm Cầu Hai (Phú Lộc), chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử các đồng chí Lê Minh, Phạm Quang Thuyết, Phan Bạch Vân về chỉ đạo phong trào ở Hương Thủy.

Được sự tiếp sức của tỉnh, các tổ chức đảng ở các huyện khẩn trương triển khai Nghị quyết Hội nghị Đầm Cầu Hai, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến là tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Tháng 6/1945, Mặt trận Việt Minh huyện Hương Trà được thành lập lấy tên là Việt Minh Bình Sơn. Ban lãnh đạo Việt Minh Bình Sơn gồm các đồng chí: Đặng Cháu, Hoàng Liên, Trần Danh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Thị Út do Lâm Mộng Quang làm chủ nhiệm[2].

Đầu tháng 8/1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương, nhân dân xã Dương Hòa cùng với các địa phương trong huyện Hương Thủy đẩy mạnh việc quyên góp thóc, gạo, tiền vào ngân quỹ của Việt Minh để trang cấp cho việc huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu, rèn vũ khí, mua vải may cờ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Trước khí thế của quần chúng và thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt của phát xít Nhật đang đến gần, ngày 10/8/1945, Tỉnh ủy họp phiên mở rộng quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Sau Hội nghị, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp về chỉ đạo ở các huyện.

Ngày 17/8/945, Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà) họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện và khu vực, đề ra kế hoạch khởi nghĩa ở các làng, tổng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà), ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23/8 nhân dân Hương Thọ đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Tại Dương Hòa đồng chí Ngô Đức Vui đã tập hợp các đoàn biểu tình từ các thôn về tại nhà thờ họ Phan tổ chức mít tinh tuyên bố chính quyền vào tay nhân dân. Bọn hương lý lo sợ đem ấn triện nộp cho chính quyền cách mạng của nhân dân[3].

Ngày 30/8, hàng nghìn nhân dân Dương Hòa đã về Huế cùng nhân dân toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn trong buổi lễ thoái vị của Bảo Đại và nghe đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xáo bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 02/9/1945, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng nhân dân cả nước chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945), nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) được đổi đời từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người chủ xã hội. Cách mạng tháng Tám chứng minh truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân Dương Hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã tạo ra bước ngoặt mới để xây dựng và phát triển Dương Hòa ngày càng khởi sắc sau này.

II. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Dương Hòa (8/1945 - 12/1946)

Sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng và giữ vững chính quyền là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp. Với khó khăn về kinh tế tài chính, văn hóa, xã hội và ngoại xâm, tất cả đang đe dọa một cách nghiêm trọng vận mệnh dân tộc nói chung và Dương Hòa nói riêng. Nhưng do vừa thoát khỏi thân phận một người dân mất nước, nô lệ, nhân dân xã Dương Hòa ý thức sâu sắc giá trị của độc lập, tự do và nguyện đem hết khả năng trách nhiệm của mình để bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được.

1. Về chính trị.

Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 22/11/1945 Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phấn khởi, tràn đầy tin tưởng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên)[4] cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia bầu cử Quốc hội chung cả nước (6/1/1946). Một không khí sinh hoạt chính trị sôi động đầy khắp thôn xóm. Trước ngày bầu cử các đoàn thể như Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc ngày đêm hăng hái vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử. Lực lượng tự vệ ngày đêm thường xuyên canh gác sẵn sàng đập tan mọi âm ưu phá hoại của kẻ địch, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của xã đã phổ biến quy định bầu cử, đồng thời nhấn mạnh cho nhân dân hiểu rõ tính chất dân chủ của việc phổ thông đầu phiếu. Khẩu hiệu “hoan nghênh ngày bầu cử thống nhất” hòa trong tiếng reo hò của đội cổ động đã làm tăng thêm không khí sôi động của ngày bầu cử. Nhiều loại thơ ca hò vè được nhân dân truyền miệng nhắc nhở nhau bầu cho các đại biểu do Việt Minh đưa ra ứng cử, như:

“Thích Mật Thể, kể cả Hoàng Anh

Cùng Trần Thanh Chữ bạn lành của ta…”

Hòm phiếu được đặt ở đình làng các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc. Để tranh giành với ta, bọn Quốc dân đảng đã đưa ra một số ứng cử viên và chúng đã dùng mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc hòng lừa bịp nhân dân, chúng tìm cách nói xấu các đại biểu Việt Minh. Nhưng kết quả cuộc bầu cử đã thắng lợi, hầu hết các ứng cử viên do Việt Minh giới thiệu là Hoàng Anh và Thích Mật Thể đã trúng cử tỉ lệ cao, có người đạt trên 90% số phiếu.

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất to lớn, cho thấy nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đặt hết tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Chính phủ cách mạng.

Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện Sắc lệnh 63/SL về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân để cử ra bộ máy chính quyền quản lý xã, thôn. Tại kì họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân xã Hương Nguyên đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch[5].

Để tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng các cấp và đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của cách mạng địa phương, công tác xây dựng Đảng rất được Huyện ủy Hương Trà chú trọng. Tháng 2/1946, tại thôn Hải Cát, đồng chí Đặng Cháu - Bí thư Huyện ủy Hương Trà, đã chủ trì lễ kết nạp 2 quần chúng ưu tú là đồng chí Trần Hữu Thí (quê ở Kim Long) và Đặng Hiền (quê ở Hải Cát)) vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó không lâu kết nạp thêm đồng chí Hồ Văn Hiến (quê ở Đình Môn) hình thành nên Chi bộ ghép đầu tiên, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng. Chi bộ do đồng chí Trần Hữu Thí làm Bí thư.

Ngay sau khi ra đời, Chi bộ ghép phụ trách 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng đã tích cực hoạt động, chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng Đảng viên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đến các địa bàn thôn, xóm. Tại Hương Thọ, được sự quan tâm của Chi bộ, các quần chúng ưu tú như Nguyễn Công Khanh  (La Khê Bải), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thương (La Khê Trẹm) đã được kết nạp vào Đảng, trên cơ sở đó Huyện ủy Hương Trà cử các đồng chí Hoàng Liên, Nguyễn Vật, Hồ Văn Hiến về xây dựng Tổ đảng Dương Hòa (Hương Nguyên) do đồng chí Hồ Văn Hiến trực tiếp chỉ đạo[6].

Sự kiện Chi bộ đảng Cộng sản ghép của 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty , Hương Phụng và Tổ đảng Dương Hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các xã. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, tổ đảng nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.

2. Về kinh tế.

Song song với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương, Ủy ban Nhân dân lâm thời và sau đó là Ủy ban Hành chính đã tiến hành phân cấp lại ruộng đất chia cho dân nghèo. Tất cả nam nữ công dân từ 18 tuổi trở lên đều được cấp phát ruộng đất để cày cấy, sản xuất.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, chính quyền địa phương đã tiến hành giảm 25% tô, thuế, giảm nợ cho nông dân, xóa bỏ thuế thân và mọi thứ thuế bất hợp lý khác.

Việc tịch thu ruộng đất của cường hào, của những kẻ có nợ máu, việc cấp phát ruộng đất, giảm tô, tức và các thứ thuế bất hợp lý đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất.

Trong tình thế khó khăn chung của đất nước, Chính quyền Cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đề ra một số biện pháp cấp bách như ra lệnh cấm dùng gạo vào những công việc không cần thiết như nấu rượu, làm bánh và kêu gọi nhân dân giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức “hũ gạo đồng tâm” để giải quyết nạn đói. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất cũng rất được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu gọi “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” của Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Chính quyền và Chi bộ đảng địa phương, nhân dân Dương Hòa đã tích cực canh tác, từ sáng sớm đã có những đoàn người tham gia lao động sản xuất; đẩy  mạnh hơn nữa việc khai hoang để mở rộng sản xuất. Nhờ vậy, đã tạo dựng được những tiền đề vững chắc để giải quyết tận gốc nạn đói.

Với quyết tâm của chính quyền cách mạng và sự nỗ lực của nhân dân, nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định và góp phần vào việc thực hiện khẩu hiệu “Diệt giặc đói” của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.

  1. Phong trào xây dựng Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng.

Sau Cách mạng tháng Tám, tài chính Nhà nước hầu như trống rỗng. Để giải quyết khó khăn trên, ngày 04/5/1946 Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh số 4 - Sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng” trong cả nước kể từ ngày 12/9/1946 - 24/9/1946 nhằm động viên nhân dân tự nguyện đóng góp phần mình vào việc xây dựng đất nước và giữ vững nền độc lập.

Hưởng ứng phong trào gây Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng ở Dương Hòa (Hương Nguyên), cán bộ cách mạng đã tuyên truyền và giải thích sâu rộng trong quần chúng nhân dân về ý nghĩa chính trị to lớn của việc làm nói trên. Đây không chỉ là việc quyên góp đơn thuần mang tính chất kinh tế mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Hiểu được ý nghĩa của hoạt động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) người ít kẻ nhiều đã lần lượt đến đình làng tự giác đóng góp vàng, bạc; có nhiều người còn đem cả vật kỷ niệm ngày cưới như đôi hoa tai vàng, nhẫn… đóng góp cho cách mạng không ghi tên tuổi. Tính chung, trong đợt vận động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng toàn thể nhân dân Hương Thọ đã góp hơn 15 lượng vàng, 200kg đồng để đóng góp vào công quỹ Nhà nước[7].

Phong trào Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhiều người dân đã tham gia đóng góp với các mức độ khác nhau. Điều này đã thể hiện sự giác ngộ cách mạng và tinh thần yêu quê hương, đất nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên).

  1. Về văn hóa giáo dục.

Do hậu quả của chính sách ngu dân mà chế độ thực dân, phong kiến để lại, hơn 90% nhân dân Dương Hòa bị mù chữ. Vì vậy, để nâng cao dân trí, góp phần kiến quốc, công cuộc xóa nạn mù chữ được xem như là một yêu cầu cần kíp đặt ra cho chính quyền cách mạng.

Ngày 06/5/1946, Hội đồng Chính phủ đã họp và quyết định phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong cả nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, phong trào học chữ quốc ngữ thực sự là một phong trào rộng rãi của quần chúng mang tính chất tự giác cao. Các buổi học thường được tổ chức vào ban đêm tại các đình, các nhà thờ các thôn ở Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm... Nhân dân lao động trẻ, già, trai, gái không phân biệt lứa tuổi đều tích cực tham gia học tập. Mỗi thôn có từ 3 đến 4 lớp. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít, nên có người vừa là thầy vừa là trò[8]. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dụng cụ học tập như: giấy, bút, dầu đèn... song tiếng ê, a đánh vần vào mỗi buổi tối vẫn vang lên từ đầu đến cuối làng.

Trong các buổi lao động gia đình hoặc hội họp tập thể, hình thức đố bài để giúp nhau ôn lại bài vở đã học đã diễn ra sôi nổi; nhiều bài thơ ca, hò vè đã được sáng tác để kịp thời vận động nhân dân học tập; tại những điểm giao thông có nhiều người qua lại, chính quyền địa phương đã tổ chức giăng dây đố chữ hoặc tổ chức thi hàng tuần, kỳ, tháng hoặc 3, 4 tháng một lần để kiểm tra và kịp thời có những biện pháp thích hợp khuyến khích nhân dân chú trọng hơn nữa đến công tác xóa nạn mù chữ. Từ trong phong trào “diệt giặc dốt”, nhiều cán bộ, đảng viên trở thành những giáo viên giỏi và sau này có những người trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng.

Thắng lợi của phong trào xóa nạn mù chữ không đơn thuần có giá trị về mặt văn hóa - xã hội, mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc.

Nhờ đó mà nhân dân lĩnh hội được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách tương đối dễ dàng, tạo thêm khả năng để nhân dân tham gia đóng góp phần mình vào công cuộc kháng chiến.

5. Về xây dựng lực lượng vũ trang và hỗ trợ phong trào Nam tiến.

  1. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ.

Hầu hết thanh niên tích cực ở Dương Hòa (Hương Nguyên) sau Cách mạng tháng Tám được đưa vào các đội tự vệ. Mỗi thôn có một tiểu đội, vũ khí chủ yếu là dao găm, mã tấu, nhưng tinh thần luyện tập rất hăng hái. Nhiệm vụ của các tiểu đội tự vệ là cảnh giác, tuần tra cho thôn xóm và bảo vệ cơ quan chính quyền xã. Tại Dương Hòa, đội tự vệ thôn có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, phụ nữ như: Mai Văn Trừng, Lê Phán, Lê Thạc, Võ Thanh Duy, Phan Mông, Bùi Ngọc Tịnh, Võ Thị Mòn, Phan Bá Cừ, Phan Sinh, Phan Thị Hàm, Phan Tự… Do đồng chí Mai Văn Trừng làm đội trưởng (1949 - 1950)[9].

Năm 1946, chính quyền nhân dân được thành lập và song song với việc tổ chức, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ được phát triển hơn. Đội trưởng tự vệ lúc này là đồng chí Mai Văn Trừng.

Không khí luyện tập rất hăng hái, sôi nổi hơn trước, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang  không chỉ đóng khung trong các thôn xóm mà được mở rộng ra địa bàn xã.

  1. Phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ba tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (23/9/1945), thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta. Tiếng súng xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp đã gây nên một làn sóng căm phẫn dữ dội trong toàn thể quốc dân đồng bào cả nước. Nhân dân Nam bộ ngay từ đầu đã nhất tề đứng dậy cầm súng đánh giặc, mở đầu một trang sử vô cùng oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ở Dương Hòa (Hương Nguyên), phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Thanh niên Dương Hòa (Hương Nguyên) đã nô nức lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người đã gia nhập giải phóng quân, khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam bộ kháng chiến”, “Thà chết vinh còn hơn sống làm nô lệ” được giương cao khắp thôn xóm, Ủy ban ủng hộ Nam bộ kháng chiến được thành lập, động viên nhân dân ủng hộ nhân tài vật lực cho miền Nam như lúa, gạo, chăn màn, quần áo, tiền bạc để mua sắm vũ khí.

Cùng với cả nước, phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến ở Dương Hòa (Hương Nguyên) thực sự trở thành cuộc vận động chính trị vô cùng rộng lớn kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Đã có những đóng góp vật chất, tinh thần xứng đáng cho kháng chiến chống quân xâm lược.

Thời kỳ từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là thời kỳ mà đất nước nói chung và Dương Hòa (Hương Nguyên) nói riêng gặp vô vàn khó khăn như trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng với muôn vàn khó khăn đã đặt đất nước, quê hương trước thử thách nghiêm trọng. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cấp trên và các đảng viên lúc đó như Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến người Đình Môn), Nguyễn Công Khanh (Hải Cát) nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chính quyền cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã lãnh đạo nhân dân giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, chuẩn bị tiềm lực để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài và hết sức gian khổ.

III. Dương Hòa (Hương Nguyên)[10] tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19/12/1946 - 20/7/1954)

Đúng như Đảng đã dự đoán, thực dân Pháp tiếp tục chính sách “việc đã rồi” hòng đặt lại ách thống trị của chúng lên đất nước ta. Sau nhiều vụ khiêu khích của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, chiến tranh bắt đầu lan tỏa khắp đất nước. Thời kỳ tạm hòa hoãn đã chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy kháng chiến, kiên quyết giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc.

Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch thay mặt Đảng và Chính phủ, kêu gọi đồng bào cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11].

Cùng cả nước, cả tỉnh và thành phố Huế nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch.

1. Dương Hòa (Hương Nguyên) từ kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) đến khi mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ (5/2/1947).

Mặc dù đã kí với Chính phủ các Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ tái xâm chiếm nước ta. Chúng sẵn sàng hành động với sự hậu thuẫn của các nước đồng minh để chiếm lại nước ta bằng mọi giá.

Tại Thừa Thiên Huế, trước những hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, đầu tháng 12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy họp đã rà soát kiểm điểm việc chuẩn bị các mặt cho công cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh.

Ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm hôm đó, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên thông qua kế hoạch tác chiến của Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến Liên khu. Tỉnh ủy chủ trương dùng lực lượng vũ trang kết hợp sức mạnh của nhân dân tiến công, bao vây và tiêu diệt quân Pháp đóng ở Huế trước khi lực lượng tăng viện của địch đến.

Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, tất cả các xã trong toàn huyện Hương Thủy đã sôi sục trong bão lửa chiến tranh, quyết đem tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương.

Trong 50 ngày đêm liền, quân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã góp phần cùng quân dân Hương Thủy tấn công liên tục vào những các vị trí của địch có pháo binh yểm trợ lưu động trên trận địa Hương Thủy từ Quảng Tế đến Ngự Bình. Ban ngày từ các vị trí chúng tấn công ta bằng thiết giáp và bộ binh. Ta dựa vào trận địa giao thông mà chiến đấu bằng nhiều hình thức phù hợp như bắn tỉa, bắn đón bằng súng trường. Nhiều lúc đánh giáp lá cà, đánh cháy xe thiết giáp của chúng bằng bom xăng.

Các cuộc tấn công của ta diễn ra bằng những vũ khí thô sơ, có khi còn dùng cả rơm rạ và ớt, dùng lửa và khói đánh vào các tòa nhà chúng dùng làm công sự để chặn ta tấn công. Hầu hết các gia đình trong xã đều có đóng góp ít nhất là một gánh rơm, vài ba lon ớt… Khoảng 7 - 8 giờ tối, tất cả những thứ đó được đưa xuống đò chuyển về Huế tiếp viện cho lực lượng bộ đội đánh địch[12].

Tại chùa Khoai (nơi xưa kia đặt Bộ Chỉ huy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo khởi nghĩa Chày Vôi) chị Tú - cán bộ phụ nữ huyện, báo cáo trước nhân dân trong xã về tình hình diễn biến chiến trận và kêu gọi nhân dân “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hưởng ứng lời kêu gọi của chị

Tú, đồng chí Thân Trọng Một và đồng chí Thạnh ở Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tình nguyện tham gia đội quân này, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Hôm sau, hai đồng chí vác bộ 10kg bộc phá vào nhà Mác-bớp đánh địch đang cố thủ ở đây. Đồng chí Thạnh hy sinh tại chỗ, đồng chí Thân Trọng Một bị thương[13].

Khi mặt trận tiếp tục mở rộng, địch liên tiếp càn quét. Do chủ quan và chưa nắm được tình hình, nên lúc đầu các cơ sở của ta bị vỡ, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể phải rút lui, thậm chí các đồng chí cán bộ trong Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến phải phân tán mỗi người một nơi. Sau khi địch rút lui, lực lượng của ta lại tập hợp, củng cố để chuẩn bị đối phó với kế hoạch mới của địch

Nhìn chung, trong khoảng thời gian này, lúc đầu ta có lúng túng, bị động nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện, quân và dân Dương Hòa (Hương Nguyên) vẫn thực hiện cuộc rút lui về tuyến sau an toàn, xây dựng căn cứ địa đảm bảo lực lượng để bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) từ tháng 2/1947 đến cuối năm 1950.

  1. Âm mưu của thực dân Pháp

Sau khi chiếm được thành phố và các đầu mối giao thông quan trọng, thực dân Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng đồng bằng và đánh sâu vào căn cứ của ta ở rừng núi, đặc biệt là Dương Hòa, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang, phá hoại kho tàng của ta. Đi đôi với chiến thuật càn quét lớn, giặc Pháp dùng chiến thuật cứ điểm nhỏ để kìm chân các hoạt động của ta ở đồng bằng, phong tỏa ta ở miền núi. Địch đánh tới đâu, chúng xây dựng, đóng đồn tới đó để thực hiện chiến thuật “Vết dầu loang”.

Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), thực dân Pháp đã hỗ trợ cho Linh mục Nguyễn Ngọc xây dựng Giáo xứ Buồng Tằm. Nhiệm vụ chủ yếu của các đồn, lô cốt là bảo vệ an ninh cho địch, khủng bố nhân dân, xây dựng bộ máy tề - ngụy phản động ở địa phương, lùng bắt cán bộ và phá hoại phong trào.

  1. Chủ trương kháng chiến của ta:

Không để cho thực dân Pháp thực hiện được những ý đồ thâm độc của chúng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm đứng lên đấu tranh phá tan các âm mưu của địch.

Một tháng rưỡi sau khi vỡ mặt trận, Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế mở rộng đã họp từ ngày 25 đến 27/3/1947 tại thôn Nam Dương (huyện Quảng Điền) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi mặt trận mở rộng. Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị chủ trương:

+ Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, không để cho giặc ăn ngon, ngủ yên, phá chính sách “bình định” của giặc, cương quyết phá tề, trừ gian, làm cho đồng bào tin tưởng Đảng vẫn còn, bộ đội vẫn còn và nhân dân tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

+ Tổ chức tăng gia sản xuất, cất giấu của cải, lúa gạo, tổ chức cảnh giác để lúa gạo không rơi vào tay giặc.

+ Xây dựng lại cơ sở, tổ chức đưa cán bộ về lại địa phương cũ để hoạt động, gây dựng lại phong trào, cơ sở, nắm lấy quần chúng để kháng chiến (nhất là 3 huyện phía Nam Thừa Thiên), phải chấn chỉnh lại quân đội, tổ chức lại hệ thống chỉ huy và cơ sở du kích, chỉnh đốn lại Ủy ban, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng[14].

Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp ở Nam Dương (3/1947), Huyện ủy Hương Trà đã họp quán triệt chủ trương của cấp trên và đề ra những biện pháp cấp thiết giữ vững chính quyền cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh và Huyện ủy Hương Trà, cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã từng bước khôi phục, củng cố phong trào cách mạng, góp phần với huyện, tỉnh làm nên những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận: chính trị, kinh tế và quân sự trong giai đoạn 1947 - 1950.

c. Nhân dân Dương Hòa chiến đấu chống lại âm mưu của thực dân Pháp, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc (từ ngày 5/2/1947 đến cuối năm 1950).

- Phong trào đấu tranh của nhân dân Dương Hòa từ ngày 5/2/1947 đến giữa năm 1948.

Sau khi Mặt trận Huế vỡ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lan rộng khắp toàn tỉnh. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ sở đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo mình đối với phong trào cách mạng của quần chúng. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết nói trên, từ năm 1947, việc phát triển đảng viên, xây dựng các hạt nhân nòng cốt để trực tiếp lãnh đạo nhân dân địa phương tiếp thu và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng rất được các Chi bộ cơ sở chú trọng. Tại Hương Thọ, với những hoạt động tích cực của Chi bộ đảng, số lượng đảng viên của xã cuối năm 1947 đã tăng lên 18 người, gồm các đồng chí: Hồ Văn Hiến (tức Xạ Hiến, Đình Môn), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thượng (La Khê Trẹm), Nguyễn Công Khanh (La Khê Bãi), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Nguyễn Bạo (Hải Cát Hạ), Trần Quang Bỉnh (Hải Cát Thượng), Đặng Văn Tuân (Hải Cát Thượng), Lê Văn Kế (La Khê Trạm), Mai Văn Trọng (Hải Cát Thượng), Nguyễn Văn Nghệ (La Khê Trẹm), Nguyễn Bách (La Khê Trẹm), Nguyễn Thị Châu (Kim Ngọc), Mai Văn Trừng (Đình Môn), Phan Bá Cừ (Dương Hòa), Mai Văn Sử (Đình Môn), Nguyễn Dương (Kim Ngọc). Về sau, các đồng chí trên mất liên lạc với tổ chức và không thể tiếp tục hoạt động.

Nhờ sự phát triển mạnh của lực lượng đảng viên đã góp phần quan trọng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Chi bộ Hương Thọ và Tổ đảng Dương Hòa trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch trên mọi mặt, dưới mọi hình thức để từng bước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.

Sau khi xây dựng hệ thống đồn bốt tại địa phương, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng và củng cố lại bộ máy tề - ngụy, nhằm tạo lập chính quyền tay sai phục vụ cho những chính sách xâm lược của chúng. Trước tình hình đó, ta chủ trương biến hội tề của địch thành lực lượng hoạt động phục vụ cho cách mạng, bằng cách đưa một số người của ta cài vào hoạt động trong các tổ chức của địch để có điều kiện hoạt động công khai và kiên quyết trừng trị những tên phản cách mạng phục vụ đắc lực cho thực dân Pháp. Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), mặc dù địch đã thành lập bộ máy hương lí làm tay sai cho chúng nhưng bộ máy này đã bị vô hiệu hóa vì ta đã cài người của mình vào đây.

Thực hiện chủ trương không để địch tăng cường các hoạt động quân sự nhằm chống phá lực lượng cách mạng, ta đã tập trung lực lượng dân quân tiến hành bao vây liên tục không cho địch tiếp xúc với bên ngoài. Kết hợp với bao vây, ta tiến hành binh vận, kêu gọi những binh lính lầm đường lạc lối, thức tỉnh trở về với cách mạng.

Đầu năm 1947, Đội hành động (tổ chức của An ninh Trinh sát vũ trang) về đóng quân tại Đình Môn (khu vực lăng Gia Long). Để giữ vai trò liên lạc giữa đồng chí lãnh đạo Ty Công an ở Dương Hòa với tổ Minh Khai (các cơ sở, các điệp báo viên cắm trong thành phố), các đội viên đội công an hành động qua cơ sở ở Dương Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo đường dây liên lạc giữa Đội Công an Hành động ở chiến khu Dương Hòa và thành phố.

Tháng 3/1947 tại 2 thôn Dương Hòa và Đình Môn, dựa vào bọn phản động và Linh mục Nguyễn Ngọc chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt 13 cán bộ chủ chốt của xã đem về đồn Nam Giao để khai thác dụ dỗ nhưng không thành. Chính vì vậy, nhiệm vụ trừ gian, diệt tề tại đây được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng kháng chiến và củng cố niềm tin cho nhân dân[15]. Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, tháng 7/1947, đồng chí Thân Trọng Một, Phạm Công Lan phối hợp với đồng chí Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến), Chủ tịch xã Hương Nhuyên chỉ huy quyết tử quân, du kích đánh và giải tán bọn phản động tại đây. Linh mục Ngọc phải bỏ giáo xứ chạy về nhà thờ Thần Phù.

Sau chiến thắng này, ta đã làm chủ hoàn toàn con đường liên lạc Bắc - Nam đi qua Dương Hòa, mở ra vành đai bảo vệ từ Le Le lên đến điện Hòn Chén, tạo tiền đề to lớn để năm sau xây dựng chiến khu Dương Hòa[16]. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Dương Hòa từ đây bắt đầu có những bước phát triển mới. Chuyển từ thế phòng ngự sang chiến tranh du kích diệt tề, trừ gian. Từ đó đã tạo dựng được những tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân quân du kích ở Dương Hòa.

Do vậy, vào đầu năm 1948, mặc dù thực dân Pháp thực hiện kế hoạch bình định vùng đồng bằng và bao vây chiến khu miền núi, tiến hành xây dựng đồn bốt, làm chỗ dựa về quân sự cho việc xây dựng chính quyền tề, ngụy của chúng nhưng vẫn không đàn áp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Du kích các xã đã ra sức phối hợp với bộ đội chính quy (Trung đoàn 101) đánh địch càn quét, hỗ trợ nhân dân làm chủ thôn xóm. Hoạt động vũ trang được đẩy mạnh khắp toàn huyện.

- Sự ra đời của chiến khu Dương Hòa và các hoạt động đấu tranh cách mạng bảo vệ chiến khu của nhân dân Dương Hòa (từ giữa năm 1948 đến năm 1949).

Vấn đề xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hàng đầu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Nhận thức rõ về vấn đề trên, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, việc chọn địa bàn để xây dựng thành điểm đứng chân cho các ban ngành lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và bảo toàn lực lượng cách mạng rất được Tỉnh ủy chú trọng thực hiện. Trên cơ sở đó, từ năm 1947 các chiến khu cách mạng đã lần lượt ra đời:  chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền), chiến khu Trò (Hương Trà), Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc)... Tại Hương Thủy chiến khu động Mỏ Tàu (ở đất xóm Hộ, Dương Hòa) đã được thành lập vào năm 1947, đặt tên là chiến khu Phương Hải để tưởng nhớ 2 đồng chí đã hy sinh: đồng chí Lê Trạc (Hải), Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách Huyện ủy Phú Vang và đồng chí Nguyễn Thượng Phương (Hương Thủy).

Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng ở các huyện phía Nam của tỉnh phát triển mạnh nhằm để đáp ứng yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, tháng 5/1948, Tỉnh ủy đã quyết định chuyển địa bàn từ chiến khu Hòa Mỹ vào vùng rừng núi phía Tây huyện Hương Thủy để xây dựng chiến khu Dương Hòa, lấy làng Dương Hòa làm trung tâm của chiến khu.

Việc lựa chọn Dương Hòa làm căn cứ đứng chân của lãnh đạo tỉnh không phải được quyết định một cách ngẫu nhiên, mà quyết định này được đưa ra trên cơ sở những phân tích về vị trí địa lí và thực tiễn hoạt động của các tổ chức cách mạng tại đây.

  • Về mặt vị trí địa lí, chiến khu Dương Hòa hội tụ nhiều yếu tố mà chiến khu Hòa Mỹ không thể có được.

Dương Hòa là vùng đất được bao bọc bởi 2 nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch, có núi non che chở ở phía Tây, phía Nam gần đô thị Huế (cách Huế 12km), cách trung tâm huyện lị Hương Thủy 11km theo đường chim bay, nằm trên tuyến đường nối liền 2 chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền) và Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc), tạo thế liên hoàn giữa các mặt trận.

Chiến khu bao gồm địa phận xã Hương Thọ (Hương Trà) và các vùng lân cận khu vực rừng núi của dãy Trường Sơn trùng điệp, tiếp giáp với thôn Lương Miêu. Ngoại vi chiến khu bao gồm Bình Điền, An Bằng, Hải Cát và một số thôn thuộc các xã Phú Sơn, Thủy Bằng (Hương Thủy). Do vậy, từ chiến khu Dương Hòa ta có nhiều thuận lợi để triển khai các hoạt động về các xã đồng bằng: Dương Hòa - Hương Thủy (từ Dương Hòa về Ấp 5, Thủy Phương), Dương Hòa - Hương Hồ (từ Dương Hòa qua đồi “Đất Mẹ” (Thủy Bằng), sau lưng điện Hòn Chén về Hương Hồ), Dương Hòa - Huế (Dương Hòa vượt qua sông đến Thủy Bằng về Huế), Dương Hòa - Liên khu 5 (Dương Hòa băng qua Khe Sòng, Khe Ván đi Nam Đông lên Liên khu 5).

Nhìn chung,“đặc điểm của chiến khu Dương Hòa là dễ thủ khó công. Tiếp tế lên về có nhiều đường, nhiều phía. Đánh địch cũng dễ vì chỉ cần vận động trong thời gian ngắn là có thể đến được nơi cần đến”[17] nên có nhiều ưu thế để cơ quan đầu não kháng chiến tỉnh chọn đây làm nơi đứng chân của mình để lãnh đạo kháng chiến.

  • Về mặt địa hình, Dương Hòa có nhiều điểm cao nếu ta làm chủ sẽ rất thuận lợi để nắm bắt kịp thời những mưu đồ và hoạt động của thực dân Pháp, Chính phủ bù nhìn Trung Kỳ, tạo điều kiện chỉ đạo sâu sát tình hình toàn tỉnh và thành phố Huế; nhiều khe, động, núi, sông ở Dương Hòa là những địa bàn lí tưởng để làm nơi trú chân của các cơ quan, ban, ngành lãnh đạo kháng chiến. Đến cuối tháng 6/1948, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh đã di chuyển vào Chiến khu Dương Hòa an toàn:
  • Ty Công an đặt cơ quan tại lăng Gia Long.
  • Cơ quan quân sự, cơ quan đầu não tỉnh đóng ở khe Ồ Ồ (một nhánh của khe Dài).

       * Bệnh viện, cơ quan thông tin văn hóa, cơ quan Thành ủy Huế đóng ở Khe Cống, đồi 815.

  • Trung đoàn 101 thường trú quân ở thôn Lương Miêu, Đại đội trọng pháo đóng quân ở Bến Trẹ (Dương Hòa).
  • Xưởng quân giới đóng ở Khe Dài.
  • Cơ quan tòa án, Công an tỉnh đóng ở xóm Hạ và xóm Trung (Buồng Tằm, Dương Hòa).       

Chiến khu Dương Hòa được thành lập một mặt vừa tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa tiếp nhận sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo kháng chiến của Tỉnh ủy, Huyện ủy, mặt khác cũng đặt ra cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chiến khu và phải tổ chức các hoạt động đảm bảo việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho chiến khu. 

Trong những ngày đầu mới thành lập, Chiến khu Dương Hòa dựa vào sự che chở, tiếp tế của nhân dân các làng khắp Hương Thủy, Hương Trà cũng như thị xã Huế để duy trì hoạt động.

Hàng hóa trung chuyển từ đồng bằng lên Chiến khu Dương Hòa để chi viện cho các cơ quan cách mạng đều tập kết cạnh miếu Ngũ Hành, ở thôn Hạ (một thôn của Dương Hòa). Với vai trò, vị trí trọng yếu như vậy đối với chiến khu, khu vực này được xem như là chợ kháng chiến của ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược[18]. Hoạt động của chợ kháng chiến Dương Hòa thời kì này rất tấp nập. Gần như mọi thứ hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống cán bộ, nhân dân đều có ở đây. Ngay cả khi địch tiến hành ngăn chặn, cô lập Chiến khu Dương Hòa khốc liệt, chợ kháng chiến Dương Hòa vẫn tiếp tục duy trì hoạt động. Nhiều đoàn dân công từ Dương Hòa lên, về thành phố tiếp tế lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, bộ đội; nhiều con em Dương Hòa đã phải hi sinh vì bom đạn của địch hoặc bị bắt bớ tù đày trong quá trình vận chuyển các nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu, song vẫn một lòng trung thành với cách mạng; có nhiều chị; nhiều mẹ tháng tháng, ngày ngày nuôi giấu cán bộ, nuôi dưỡng thương binh, không một chút suy tính[19].

 

Hoạt động cách mạng ở một số thôn xóm xung quanh Dương Hòa không ngừng được đẩy mạnh để đảm bảo an toàn cho căn cứ địa kháng chiến của tỉnh.

Chiến khu Dương Hòa được thành lập, vạn đò ở trên sông đã tích cực tham gia kháng chiến nên được đặt tên là vạn Độc Lập, với hàm ý đây là địa bàn tích cực tham gia kháng chiến vì độc lập, tự do của quê hương đất nước. Từ bến sông của vạn đò này, nhân dân đã tiếp tế và trung chuyển hàng hóa từ đồng bằng Hương Thủy lên chiến khu.

Từ những hoạt động cách mạng của xóm Lụ, xã Dương Hòa (sau này giao cho Thủy Phương), nhân dân Hương Thủy đã gọi xóm này là “xóm Trung ương”. Vì tất cả những người muốn qua Tân Ba để vào Chiến khu Dương Hòa đã phải được kiểm tra, kiểm soát ở xóm này. Do vậy, Tân Ba và xóm Lụ được xem như tuyến đầu của Chiến khu Dương Hòa ở phía Đông.

Làng La Khê Trẹm là địa đầu của Dương Hòa. Nhờ trạm canh ở đây ta có thể quan sát mọi hoạt động của địch và đánh mỏ cảnh báo mỗi khi địch tổ chức các trận càn lên Chiến khu Dương Hòa[20]. Vì tổ chức tốt các hoạt động cảnh giới, cảnh báo từ xa nên thế chủ động của Chiến khu Dương Hòa trong việc chống càn được phát huy tối đa.

Mặt khác, nhân dân Dương Hòa đã tích cực phối hợp với các lực lượng chủ lực tỉnh, nhất là lực lượng công an tỉnh, huyện để bảo vệ an toàn cho các cán bộ và giữ vững chiến khu.

Trên cơ sở lực lượng công an trật tự rút từ Hòa Mỹ vào được bố trí sắp xếp lại, các đồn, trạm để bảo vệ chiến khu đã ra đời. Đồn Công an Dương Hòa thành lập có nhiệm vụ bảo vệ tiền chiến khu, nắm tình hình địch qua chị em tiểu thương Mỹ Thủy (Thủy Phương) lên buôn bán; đồn có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ nhân, hộ khẩu để phát hiện người lạ vào chiến khu. Trạm gác ở bờ sông Kim Ngọc có nhiệm vụ nắm tình hình địch ở vùng La Khê Trẹm, người qua lại bến đò để vào Chiến khu Dương Hòa… Hàng tuần, các đồn, trạm công an đều báo cáo về Ty Công an (Ban II) danh sách người từ nơi khác đến tạm trú tại Kim Ngọc hoặc đi qua trạm để kiểm tra đối chiếu nhằm phát hiện những đối tượng nghi vấn để có đối sách xử lý kịp thời.

Tiếp đó, Ty Công an đã tham mưu cho Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh lập thêm “Lao xá Nam” đóng tại chiến khu Dương Hòa phục vụ yêu cầu tạm giam phạm nhân các huyện Phú Lộc, Phú Vang, Hương Thủy và thị xã Huế[21].

Nhiều hoạt động chính trị góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, của các cán bộ cách mạng, các phong trào thi đua đã thường xuyên được triển khai, phát động  tại Chiến khu Dương Hòa. 

Để phổ biến chủ trương, đường lối kháng chiến, tuyên truyền thắng lợi của quân và dân ta, Nội san Danh dự (ra đời tháng 4/1947 Chiến khu Hòa Mỹ) được nâng lên thành Tạp chí Học tập do đồng chí Đoàn Hải làm biên tập, in li-tô tại Dương Hòa và phát hành đến quận, huyện. Những số báo trên được phát hành trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp đã góp phần giáo dục chính trị, tư tưởng, hướng dẫn, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên công an và tích cực động viên nhân dân tham gia ủng hộ kháng chiến, giúp đỡ công an hoàn thành nhiệm vụ[22]

Tháng 7/1948, lãnh đạo Ty Công an Thừa Thiên quyết định mở lớp Công an sơ cấp khóa Nguyễn Xuân Thưởng tại Thác Mít (Dương Hòa). Học viên là cảnh sát, đi động viên các huyện. Tháng 11/1948,

Ty Công An Thừa Thiên Huế mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho Trưởng quận Công an và các Trưởng ban của Ty tại Chiến khu Dương Hòa, thời gian học hai tháng.

Trên mặt trận kinh tế, cuộc đấu tranh chống chính sách bao vây kinh tế của địch diễn ra một cách quyết liệt. Mặc dù thực dân Pháp ra sức thực hiện chủ trương triệt phá công cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đặc biệt chúng phá rối không cho đồng bào sản xuất, cày cấy trên ruộng đồng của mình, thậm chí lúa chín vàng địch quyết phá không cho nhân dân thu hoạch. Mọi âm mưu của kè thù không làm mất ý chí kiên cường và lòng quả cảm, mưu trí của cán bộ, đảng viên, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên). Trong thời gian đầu cuộc kháng chiến, địch càn quét rất ác liệt nhưng Chi bộ đảng, chính quyền cách mạng, các tổ chức đoàn thể vẫn lãnh đạo, động viên, tổ chức cho nhân dân và lực lượng vũ trang tranh thủ tăng gia sản xuất, phục vụ kháng chiến.

Có thể nói, trong thời gian đầu kháng chiến chống Pháp, một trong những thành tích tiêu biểu của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) là đã góp phần mình xây dựng và bảo vệ chiến khu. Dưới bom đạn, đòn thù tra tấn của địch, nhân dân Dương Hòa vẫn bám trụ quê hương, che giấu và nuôi dưỡng cán bộ tỉnh, huyện, Trung ương về hoạt động và chỉ đạo phong trào kháng chiến ở Thừa Thiên Huế nói chung và Hương Thủy, Hương Trà nói riêng.  

- Thống nhất bộ máy chính quyền xã và thành lập Chi bộ xã Hương Thọ (trong đó có Dương Hòa) (1949)[23], không ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu của toàn xã.

Năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước chuyển dần từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Mọi tiềm năng của dân tộc cần được huy động để đáp ứng nhu cầu cần thiết cho cuộc kháng chiến. Đáp ứng tình hình của đất nước, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, khoảng giữa năm 1949, xã Hương Thọ được thành lập. Xã Hương Thọ gồm các thôn của các xã Hương Nguyên (Lương Miêu, Dương Hòa, vạn Độc Lập, Đình Môn), xã Hương Ty (Kim Ngọc, La Khê Trẹm, Thạch Hàn, vạn Thạch Hàn) và xã Hương Phụng (Bình Điền, Diễn Phái, La Khê Bãi và Hải Cát)(1).

Trên cơ sở chính quyền của các đơn vị hành chính cũ, Ủy ban kháng chiến hành chính xã Hương Thọ đã ra đời, do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch, Phó Chủ tịch kiêm chủ tịch Mặt trận Liên Việt là đồng chí Phan Hữu Huyên. Sau khi nhập thành xã lớn (xã Hương Thọ), Đại hội Đảng bộ xã Hương Thọ lần thứ nhất đã triệu tập vào cuối năm 1949 tại Am Cây Quạ bên hồ Dài, gần Sở Minh (lăng Gia Long), dưới chân núi Thiên Thọ thuộc thôn Đình Môn đã bầu ra ra Ban Chấp hành và bầu đồng chí Nguyễn Công Khanh làm Bí thư, bầu đồng chí Lê Thượng làm Phó Bí thư Chi bộ, Đảng bộ gồm 120 đảng viên, tổ chức thành nhiều chi bộ sinh hoạt theo đơn vị thôn. Riêng Chi bộ thôn Dương Hòa có hơn 20 đảng viên do đồng chí Phan Hữu Huyên, làm Bí thư chi bộ; Vạn Độc Lập có hơn 10 đảng viên do đồng chí Lê Hai, làm Bí thư chi bộ(2).

Đến năm 1950 tổ chức đảng ở Hương Thọ tiếp tục được kiện toàn về mặt tổ chức, do đồng chí Nguyễn Dương làm Bí thư, Phó Bí thư là đồng chí Trần Quang Hợi. Địa điểm sinh hoạt của tổ chức đảng ở Hương Thọ được chuyển từ Đình Môn về Liên Bằng đóng tại nhà ông Nguyễn Khắc Niêm. Ủy ban kháng chiến hành chính xã do đồng chí Phan Nghệ làm Chủ tịch; đồng chí Trần Bính làm Phó Chủ tịch. Trụ sở Ủy ban đóng tại nhà bà Vẽ thôn Thạch Hàn(3).

(1) (2) Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ nhất, ngày 07 tháng 12 năm 2015 (Văn phòng - Đảng ủy xã Dương Hòa).

(3) Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, Bản đánh máy, trang 32.

Nhằm xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh đảm bảo là hậu phương của cơ sở kháng chiến đầu não, Chi bộ chủ trương tăng cường công tác phát triển đảng, đẩy mạnh việc xây dựng các đoàn thể. Chỉ trong một thời gian ngắn đã xây dựng được hệ thống chính trị ở hầu hết các thôn trung tâm và những vùng xa như vạn Độc Lập, thôn Bình Điền. Về công tác quần chúng, Chi bộ tập trung củng cố các đoàn thể nông hội, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên tiền phong. Gần như toàn bộ người dân tùy theo độ tuổi, giới tính đều tham gia một hội, đoàn thể và có nhiều việc hành động thiết thực để phục vụ kháng chiến. Nhiều nam nữ thanh niên xung phong vào du kích xã để chiến đấu, một số thanh niên tình nguyện gia nhập bộ đội chủ lực, một số khác tham gia công tác tại các cơ quan của tỉnh như: y tế, xưởng in, thông tin văn hóa, bưu điện… Nhiều trạm gác được lập nên ở La Khê Trẹm, Thạch Hàn, Đình Môn, Dương Hòa do lực lượng thiếu niên phối hợp với thanh niên ngày đêm canh gác, tuần tra, cảnh giới, báo động để lực lượng của ta kịp thời tổ chức đánh giặc hoặc di chuyển.

Lực lượng vũ trang xã được tổ chức và tăng cường thêm về số lượng và chất lượng do đồng chí Mai Văn Trừng làm Xã đội trưởng, sau đó thì đồng chí Hoàng Trọng Duyệt (thôn Kim Ngọc) thay. Đặc biệt Chi bộ rất quan tâm đẩy mạnh củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích. Toàn xã có 3 trung đội du kích tập trung, mỗi thôn có 1 trung đội.

Sự kiện thành lập xã Hương Thọ có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị của nhân dân. Lần đầu tiên sức mạnh của nhân dân địa phương được quy tụ lại, lớn mạnh hơn, có kinh nghiệm hơn nhiều so với thời kỳ đầu kháng chiến. Ủy ban hành chánh kháng chiến, các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng vũ trang ra đời dựa trên cơ sở đội ngũ cán bộ cốt cán qua thử thách trong thời gian tương đối dài và khá ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ đây, nhân dân Dương Hòa dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Hương Thọ, được tôi luyện và trưởng thành trong cuộc chiến đấu một mất một còn với địch, sức mạnh vốn có của nhân dân Dương Hòa lại được nhân lên gấp bội, lập thêm nhiều chiến công trên tất cả các mặt trận.

Trong những năm 1949, 1950 mặc dù địch ráo riết tăng quân càn quét đồng bằng, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, tập trung binh lực để xóa sổ chiến khu nhưng không thể thực hiện được và phải nhận những thất bại cay đắng sau những đợt phản kích của ta. 

Từ 25/2 đến 14/3/1949, dưới sự chỉ đạo của Thủ hiến Trung Kỳ Phan Văn Giáo địch tập trung 2000 quân, có máy bay yểm hộ theo 3 hướng: từ Truồi - Nong lên La Hy theo đường 14, từ Tuần theo sông Hữu Trạch đến Bình Điền, từ Dạ Lê (Thủy Phương) tiến lên Lương Miêu - Dương Hòa để đánh phá chiến khu, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Nắm được âm mưu của địch, Tỉnh ủy kịp thời chỉ đạo các cơ quan và nhân dân sơ tán, hạn chế tổn thất. Đồng thời chỉ đạo bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an, dân quân du kích hợp đồng chiến đấu, nhằm phá trận càn của địch, bảo vệ chiến khu. Sau 20 ngày phối hợp chiến đấu bảo vệ chiến khu, quân, dân Thừa Thiên Huế trong đó có quân, dân Dương Hòa đã loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên địch (có 1 quan tư, 1 quan ba, 1 quan hai), âm mưu “tiêu diệt chiến khu” của địch đã bị quân, dân ta đánh bại hoàn toàn.

Tiếp đó vào tháng 3/1949, tại trạm canh ở La Khê Trẹm, ba cán bộ của ta đã quan sát được mọi hoạt động của địch ở đồn Tuần và phát hiện quân Pháp đang chuẩn bị đợt hành quân càn quét của từ đồn Tuần hướng về La Khe Trẹm. Nắm bắt được ý đồ hành động của kẻ địch, Chi bộ đảng Dương Hòa đã kịp thời lãnh đạo nhân dân phối hợp với chủ lực của tỉnh, Thành đội Huế tiến hành chống càn. Kết quả ta đã đẩy lùi được trận càn của địch.

Sau những thất bại trên, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ xóa sổ Chiến khu Dương Hòa. Tháng 12/1949, địch tiếp tục mở trận tiến công lớn với 3 cánh quân đánh chiếm Chiến khu Dương Hòa. Cánh quân thứ 3 từ Phú Bài lên Dạ Lê (Thủy Phương), tiến lên sông Tả Trạch và dừng lại tại vùng Vỹ Dạ Thượng để đánh hủy diệt vùng này. Sau 20 ngày đêm tiến hành càn quét, chúng đã bị bộ đội chủ lực tỉnh kết hợp với du kích Dương Hòa dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đảng đánh bại, buộc phải rút về Huế[24].

Tháng 5/1950, bộ đội địa phương Hương Thủy phối hợp với nhân dân du kích Dương Hòa và 1 đơn vị Trung đoàn 101 đánh bại trận càn của địch lên chiến khu.

Song song với những hoạt động quân sự, để làm thất bại chính sách chiêu an của Thủ hiến Trung Kỳ Phan Văn Giáo, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương chú trọng hơn nữa đấu tranh chính trị, tăng cường binh vận, địch vận, động viên, giáo dục để nhân dân hiểu bản chất của kẻ địch và tin tưởng vào cuộc kháng chiến lâu dài.

Với đặc thù là địa bàn trung tâm của chiến khu tỉnh, địch thường xuyên tung gián điệp, mật vụ giả dạng buôn bán, người thân để lên nắm tình hình. Do vậy, nhân dân Dương Hòa luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực phối hợp với các ban ngành của tỉnh chỉ thị, đẩy lùi các hoạt động chống phá từ bên trong của kẻ thù, bảo đảm an toàn cho các sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trên địa bàn như các kì đại hội, Hội nghị của Tỉnh ủy và hoạt động của các ban, ngành đang trú chân tại đây.

Nhận thức rõ đặc thù trên, công tác giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cho nhân dân rất được Chi bộ Hương Thọ đề cao. Nhờ làm tốt công tác này nên  trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Hương Thọ không xảy ra tình trạng địch đánh phá do bị chỉ điểm. Đánh giá về những đóng góp của các đoàn thể và nhân dân Dương Hòa cho kháng chiến, Đại hội Dân quân tỉnh nhấn mạnh “về sự ủng hộ của đoàn thể, cơ quan, dân chúng: Chỉ có xã Hương Thọ giúp đỡ nhiều, còn các xã khác lẻ tẻ vì dân quân chưa công tác gì đặc biệt”. Những đóng góp này được thể hiện cụ thể qua những sự kiện sau:   

Tháng 3/1949, Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa đã  bố trí chỗ ăn ở cho cụ Ưng Úy sau khi Đội Công an xung phong phối hợp với lực lượng tại chỗ của Quận Công an Hương Thủy, Phú Vang đưa cụ Ưng Úy và vợ lên chiến khu an toàn. Việc đưa và bảo vệ an toàn cụ Ưng Úy ra vùng tự do nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã góp thêm tiếng nói đứng về phía cách mạng của những người trong Hoàng tộc có tác dụng rất lớn trong việc vận động quần chúng nhân dân đứng lên chống Pháp, ủng hộ kháng chiến(1).

Để trang cấp thêm y cụ và thuốc chữa bệnh cho bệnh viện ở Chiến khu Dương Hòa, biết tin Bệnh viện Huế vừa được trang cấp thêm dụng cụ phẫu thuật, thực hiện chỉ thị của Ty Công an tỉnh, các đồng chí Tráng Thông và Lâm Ấm, cơ sở của ta trong cơ quan cứu tế xã hội địch cùng các đồng chí Tôn Thất Long, Phan Văn Lưu (cơ sở Ban Dân vận Thị ủy Thuận Hóa) đã liên lạc với hai nữ y tá là cơ sở của ta tại Bệnh viện Huế lên kế hoạch để hành động. Với quyết tâm cao độ, mưu trí, hơp đồng chặt chẽ, lợi dùng từng chi tiết sơ hở của địch để đánh lừa địch và bảo vệ được cơ sở, chỉ trong một đêm ta đã lấy được bộ đồ mổ và một số thuốc chữa bệnh đưa ra Chiến khu Dương Hòa đầy đủ và an toàn để cứu chữa cho thương, bệnh binh phục vụ kháng chiến2

Trên đà những thắng lợi quân sự, chính trị đã đạt được, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ I từ ngày 17/4/1949 đến ngày 27/4/1949 được tổ chức ở trung tâm Dương Hòa (cách đình làng Dương Hòa về phía Tây khoảng 3000m) với 130 đại biểu đại diện cho hơn 2000 đảng viên trong tỉnh đã diễn ra và thành công tốt đẹp.

(1) (2) Bộ Công an - Công an Thừa Thiên Huế, Biên niên Lịch sử Công an nhân dân Thừa Thiên Huế (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 107-109 và trang 107 - 109; 111 - 112.

Cuối năm 1949, tại Chiến khu Dương Hòa, lực lượng di động viên và công an đang hoạt động trên địa bàn Hương Thủy đã phối hợp với Ty Công an Thừa Thiên Huế đưa tên Hồ Minh lên Thác Mít  (nơi đặt trụ sở Ty Công an Thừa Thiên Huế), để khai thác và sau đó xử lý; làm thất bại kế hoạch thu thập và ghép một bức ảnh có hình đồng chí Trưởng ty Công an Thừa Thiên cùng với một số cán bộ, nhân viên kháng chiến đứng dưới lá cờ ngụy ở một khu rừng để tuyên truyền khuếch đại là đã lập ra được một chiến khu “Quốc gia” chống cộng sản của kẻ thù.

Tiếp đó vào tháng 3/1950, Hội nghị điệp báo ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và Khu V được tổ chức tại Lương Miêu (Dương Hòa)[25].

Ngày 19/5/1950, tại Thác Hộ, Chiến khu Dương Hòa, trước đông đảo cán bộ các ngành, các cấp cùng cán bộ, nhân viên Ty Công an và một số đồng bào ở Dương Hòa[26], Tỉnh ủy , Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Thừa Thiên đã tổ chức lễ trao tặng phần thưởng chiếc áo bông của Bác Hồ cho Ban điệp báo Ty Công an Thừa Thiên Huế vì đã lập được nhiều chiến công xuất sắc trong phong trào thi đua “giết giặc lập công”.

Từ ngày 02 đến ngày 06/9/1950 Ty Công an đã tổ chức Đại hội trật tự xã tại Chiến khu Dương Hòa. Tham dự Đại hội có đại biểu của Ủy ban Kháng chiến hành chính của 15 xã, 78 đại biểu của 6 huyện và 12 đại biểu của Ty Công an Thừa Thiên Huế. Đại hội tập trung thảo luận một số vấn đề về tình hình trật tự xã, lân gia liên bảo và thông qua đề án phòng gian chống mật thám, chống địch bao vây kinh tế.

Với sự hỗ trợ và giúp sức của nhân dân Dương Hòa, những hoạt động chính trị mang tính định hướng chiến lược cho các lực lượng cách mạng trên toàn tỉnh được diễn ra một cách an toàn và thắng lợi, góp phần vào sự phát triển của phong trào cách mạng trong những giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh những hoạt động quân sự và chính trị để bảo vệ an toàn cho chiến khu, hoạt động đảm bảo công tác hậu phương kháng chiến cũng được Chi bộ Hương Thọ chú trọng. Dưới sự lãnh đạo của các cán bộ, đảng viên cơ sở, nhân dân Dương Hòa đã tích cực, sáng tạo, vượt qua nhiều tuyến ngăn chặn của địch để vào thị xã Huế thu mua lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm cung cấp cho các cơ quan kháng chiến, các đơn vị bộ đội; các chợ kháng chiến Dương Hòa, Đình Môn làm tốt nhiệm vụ đầu mối thu mua hàng hóa phục kháng chiến.

Như vậy, giai đoạn từ khi mặt trận vỡ đến cuối 1950, là một quá trình chuyển hóa quan trọng cả về chất và lượng của phong trào cách mạng ở Dương Hòa. Có thể nói, trong thời gian đầu, Dương Hòa cũng nằm trong tình trạng khó khăn chung của toàn tỉnh, phong trào bị động, lúng túng. Nhưng qua thực tế, dần dần phong trào đã ổn định, củng cố và phát triển mạnh. Đây là thời kì mà Dương Hòa củng cố lực lượng, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ chiến khu Dương Hòa, bảo vệ cơ quan lãnh đạo kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Phát huy những thắng lợi đã đạt được trong giai đoạn 1947 - 1950, nhân dân Dương Hòa bước vào thời kỳ mới, tuy có gian khổ, ác liệt, khó khăn hơn nhưng đầy tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của toàn dân.

3. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa từ 1951 - 20/7/1954.

Với chiến thắng Biên giới Thu Đông năm 1950 và những chiến thắng liên tiếp của ta từ đầu năm 1951 đã tạo ra thế chiến lược mới ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch: ta giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính ở Bắc Bộ, và đẩy mạnh chiến tranh du kích trên các chiến trường khác. Địch bị tổn thất nặng nề và ngày càng rơi vào thế bị động, lúng túng.

Được sự giúp đỡ của Mỹ, thực dân Pháp đưa ra nhiều thủ đoạn điên cuồng, xảo quyệt, tập trung củng cố về mặt quân sự hòng ngăn chặn bước tiến mạnh mẽ của ta. Là địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, nên Dương Hòa đã trở thành nơi trọng điểm địch thường xuyên tổ chức các cuộc càn quét, bắn phá khu vực này nhằm “tiêu diệt” Chiến khu Dương Hòa. Song dù cố gắng bao nhiêu, chúng cũng không thể xoay chuyển được cục diện của chiến tranh đang phát triển theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta.

Ngày 21/01/1950, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị toàn quốc của Đảng đề ra những nhiệm vụ cần kíp cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 02/5/1950, tại Khe Rệ (Dương Hòa), Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ II đã họp và ra Nghị quyết nêu rõ: “Nhiệm vụ hàng đầu và cấp thiết là xây dựng lực lượng quân sự, phát triển đồng thời cả ba thứ quân, huy động nhân tài, vật lực của nhân dân trong tỉnh phục vụ kháng chiến, chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”[27]. Đại hội chủ trương phát động toàn dân mở chiến tranh du kích, bao vây đồn địch, kiên quyết chống càn mở rộng vùng giải phóng.

Sau Đại hội này, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 4/1952) về chỉnh Đảng, Huyện ủy Hương Trà[28] đã mở lớp “sơ chỉnh” cho cán bộ, đảng viên. Lực lượng cán bộ, đảng viên thôn Dương Hòa, Hương Thọ đã được tham dự các lớp sơ chỉnh để nâng cao nhận thức, gắn bó hơn với Đảng, với dân, với kháng chiến. Trên cơ sở đó, đã góp phần củng cố, tăng cường chất lượng hoạt động của Chi bộ Hương Thọ. 

Sau đợt sơ chỉnh đảng, ý thức giai cấp của các đảng viên được nâng lên, nội bộ Đảng đoàn kết, phấn khởi, quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong những năm 1952, 1953 Chi bộ tiếp tục được kiện toàn về mặt tổ chức. Đồng chí Nguyễn Bách được Chi bộ tín nhiệm bầu làm Bí thư xã Hương Thọ và đồng chí Trần Quang Hợi làm Phó Bí thư. Ủy ban Kháng chiến hành chính xã do đồng chí Mai Sử làm Chủ tịch, đồng chí Trần Quang Bính làm Phó Chủ tịch. Riêng bộ máy ở Dương Hòa vẫn giữ nguyên như cũ[29].

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chi bộ Hương Thọ nhân dân Dương Hòa từng bước ổn định lại tình hình, đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế góp phần cùng quân dân cả nước phát huy những lợi thế mà ta đã đạt được sau chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950.

Trên mặt trận quân sự, vào năm 1951, địch mở những trận càn quét lớn để bảo vệ hệ thống lô cốt và đánh phá phong trào kháng chiến trong toàn huyện với âm mưu, đánh bật du kích ta ra khỏi thôn xóm.

Để chặn đứng việc địch thực hiện các kế hoạch càn quét lên Chiến khu, Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) đã tăng cường việc xây dựng lực lượng vũ trang. Ngoài trung đội du kích tập trung của xã do đồng chí Nguyễn Phước Em (tức Tráng Em) làm Xã đội trưởng, tất cả các thôn đều có lực lượng dân quân du kích làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ làng xóm, bao vây, chống càn. Tham gia đội du kích tập trung của Dương Hòa có các đồng chí: Phan Dương, Phan Mông, Lê Thạc, Phan Văn Xuyên, Phan Thị Soi, Nguyễn Thị Gái, Võ Thuyết, Võ Đại Thoan (tức Võ Thanh Duy), Lê Thị Sâm...

Đến năm 1952, để cứu vãn thất bại trong chiến tranh, địch rút các vị trí lẻ để tập trung lực lượng mở các cuộc càn quét trên diện hẹp dài ngày, nhằm vào các căn cứ du kích và vùng đứng chân của chủ lực ta.

Hệ thống phòng thủ của địch được xây dựng ngày càng kiên cố, nhiều làng mạc bị triệt hạ, cục diện chiến tranh ở Thừa Thiên Huế trở nên quyết liệt. Trong đó, Chiến khu Dương Hòa vẫn là một trong những trọng điểm bắn phá, triệt hạ của kẻ thù.

Ngày 19/6/1952, Bộ Chỉ huy quân Pháp huy động Tiểu đoàn 27 lính Âu Phi, Tiểu đoàn 2 lính Bắc Phi tấn công lên Chiến khu Dương Hòa, nhằm bao vây và tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta. Ngày 20/6 địch tiến lên Dương Hòa, chúng cho quân tản ra đốt nhà cửa, tàn phá tài sản của nhân dân xung quanh vùng chiến khu. Trước khi tấn công chúng cho mật vụ, gián diệp thăm dò tình hình biết được rằng Tiểu đoàn 319, Trung đoàn 101 đóng tại Đình Môn đã rút ra Quảng Trị, nên có phần chủ quan trong trận tập kích này. Đúng 9 giờ, ngày 20/6/1952, địch đã ồ ạt dùng tàu chiến, ca nô chở quân ngược sông Hương lên đánh phá chiến khu. Khi quân Pháp vừa từ các chiếc thuyền nhỏ đổ bộ lên khu vực bờ sông xóm Hạ, thôn Dương Hòa, quân dân ta đã mai phục từ trước, ở các rặng tre và một số mỏm đồi cao xung quanh nhanh chóng nổ súng đánh phủ đầu. Bất ngờ quân Pháp bị thương vong nhiều nhưng vẫn ngoan cố chống trả. Tiếp đó, quân dân Dương Hòa đã tổ chức các loại hầm chông, bẫy để phục kích địch, nhằm ngăn chặn những bước tiến quân của địch. Mặt khác, nhận lệnh của Bộ Chỉ huy mặt trận, Trung đoàn 101 cấp tốc hành quân vượt qua đoạn đường rừng gần 30 km dày đặc đồn địch quay trở lại chiến khu đánh địch. Đến sáng ngày 21/6, Trung đoàn 101 đã tiến về Chiến khu Dương Hòa, vừa đến nơi, cán bộ chiến sĩ đã dàn trận địa áp sát mục tiêu, chờ lệnh nổ súng. Đúng 13 giờ 30 ngày 21/6, các mũi xung kích của Tiểu đoàn 435 và Tiểu đoàn 319 xông lên dũng mãnh tiến công địch. Bọn địch bất ngờ bị ta tập kích bỏ chạy tán loạn vào rừng. Sau 15 phút nổ súng, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt gần 350 tên, bắt sống 38 tên, thu 71 súng trung liên, 15 tiểu liên, 25 súng cối, 37 súng trường và nhiều phương tiện quân sự khác…

Trong trận vận động chiến ở Chiến khu Dương Hòa ngày 20/6/1952 dân quân du kích Lương Miêu, Dương Hòa, Đình Môn… đã phối hợp chặc chẽ với Trung đoàn 101, bộ đội huyện Hương Thủy, đánh địch thu được nhiều thắng lợi. Với chiến thắng này đã chứng minh ý thức chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc của chiến sĩ với tinh thần vượt qua mọi khó khăn, đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ, chiến đấu dũng cảm với quyết tâm cao và sự trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt của lực lượng vũ trang Thừa Thiên Huế nói chung và dân quân du kích Dương Hòa nói riêng; khẳng định sự bất khả xâm phạm của Chiến khu Dương Hòa, nâng vị thế Dương Hòa thành một chiến khu có tầm vóc trong cả nước. Sau trận đánh năm 1952, thực dân Pháp không đủ khả năng tấn công lên chiến khu, chúng tìm cách ngăn chặn các ngã đường tiếp tế của ta từ đồng bằng lên chiến khu.

Không chỉ chặn đánh địch ở vòng ngoài, trong những năm 1951 - 1953, các hoạt động đấu tranh chính trị, kinh tế nhằm củng cố tổ chức và mọi sinh hoạt đời sống trong Chiến khu Dương Hòa cũng rất được chú trọng.  

Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) được kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo, các đoàn thể quần chúng dần dần đi vào hoạt động có nề nếp, có tác dụng tích cực, nhất là tổ chức Thanh niên và Phụ nữ. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức thường xuyên trong thanh niên để gây khí thế cho kháng chiến. Phụ nữ tham gia tích cực phong trào chăm sóc cán bộ, bộ đội và thương binh. Trong đợt một (từ năm 1952 đến tháng 8/1953) hưởng ứng vận động gây quỹ nuôi quân, nhân dân Dương Hòa đã đóng góp và vận chuyển hàng trăm tấn gạo từ các xã đồng bằng lên chiến khu. Thanh niên tình nguyện tham gia tòng quân, hàng trăm con em Dương Hòa đã gia nhập lực lượng vũ trang của huyện và tỉnh…

Đặc biệt, trong hai năm 1951, 1952 trên đường đi công tác từ Bắc vào Nam, một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước như đồng chí Lê Đức Thọ (1948), đồng chí Phạm Văn Đồng (1949), đồng chí Lê Duẩn (1951), Phạm Hùng (1952)… đã dừng chân trực tiếp chỉ đạo và kịp thời thăm hỏi, động viên và phổ biến những chủ trương, đường lối kháng chiến cho cán bộ lãnh đạo tỉnh, khu và chiến sĩ tại Chiến khu Dương Hòa, góp phần thúc đẩy và phát triển hơn nữa sự nghiệp kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên Huế.

Ngày 06/2/1952, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên họp đánh giá tình hình và ra chỉ thị phát triển phong trào chiến tranh du kích, ra sức bảo vệ mùa màng, thực hiện thuế nông nghiệp, đẩy mạnh cuộc vận động tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm.

Thực hiện chủ trương trên của Tỉnh ủy, bộ đội địa phương, dân quân, du kích Dương Hòa tích cực tổ chức cho dân gặt lúa ban đêm, thực hiện phương châm: “Đẩy mạnh chiến tranh du kích, gặt mau, giấu kín”. Mặc khác, lực lượng vũ trang cũng đã bảo vệ các đoàn vận tải chuyển lúa công lương, thuế nông nghiệp từ các xã đồng bằng, vượt Quốc lộ I, vượt sông lên Chiến khu Dương Hòa an toàn[30].

Đầu tháng 5/1953, Chính phủ Pháp cử tướng Nava sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch Nava ra đời với tham vọng tạo ra một tình hình quân sự cho phép đưa ra một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh.

Trong giai đoạn đầu triển khai Kế hoạch Nava, quân Pháp chủ trương giữ thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến với lực lượng vũ trang ta ở đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện chiến lược tiến công ở Nam Bộ, xóa 2 vùng tự do của Liên khu 4 và Liên khu 5. Đối với địa bàn Thừa Thiên Huế, thực dân Pháp ráo riết bắt lính củng cố các vị trí chiếm đóng, mở hàng chục trận càn quét, tập kích đánh phá, đẩy mạnh chiến tranh tâm lí, bình định đồng bằng nhằm chuyển bại thành thắng trong khoảng thời gian 18 tháng. Trong tháng 7/1953, địch liên tiếp mở các cuộc càn quét ở Dương Hòa (Hương Thọ), gây cho ta nhiều khó khăn.

Tiếp đó, nhân dân Dương Hòa lại phải gánh chịu những tổn thất nặng nề do trận lũ tháng 9/1953 gây ra. Trong đợt thiên tai này, trên toàn xã Hương Thọ hàng trăm ngôi nhà đã bị cuốn trôi, hơn 90 người chết, hàng nghìn con trâu, bò, lợn gà bị nước cuốn, hoa màu bị hư hỏng nặng.

Tàn ác hơn, khi nhân dân còn tập trung trên các đỉnh đồi để chạy lụt thì địch còn cho máy bay đến bắn phá, nên nhân dân ngày càng khó khăn[31].

Trước những chuyển biến mới trên chiến trường, ngày 19/10/1953, tại Dương Hòa, Tỉnh ủy đã mở Hội nghị cán bộ chính trị và phát động phong trào thi đua giết giặc lập công, phối hợp với chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 trên toàn quốc.

Quán triệt chủ trương trên của Tỉnh ủy, trong những tháng cuối năm 1953, Chi bộ Dương Hòa (Hương Thọ) đã nhanh chóng đề ra các chủ trương tập trung khắc phục hậu quả lũ lụt. Với tinh thần vượt khó cùng với cự hỗ trợ tích cực từ nhiều đơn vị, địa phương chỉ trong một thời gian ngắn nhân dân Dương Hòa đã từng bước vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp tục cùng quân, dân toàn tỉnh tiến lên đánh địch. Dân quân du kích tập trung ở La Khê Trẹm ngày đêm không lúc nào rời vị trí bao vây, uy hiếp đồn Trầu, giết nhiều tên địch; tổ du kích thôn Kim Ngọc do đồng chí Mai Văn Trừng chỉ huy bắn qua bến đò Dương Phẩm, nơi bọn Pháp đang tập trung làm chết một tên quan ba và nhiều tên khác; du kích thôn Đình Môn bắn máy bay địch đang uy hiếp đoàn vận tải từ Nghệ Tỉnh đi qua thôn Đình Môn vào Khu 5… 

Ngày 13/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, quân dân Dương Hòa tích cực tiến công địch để chia lửa với chiến trường chính.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (9/5/1954) và Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam được ký kết (21/7/1954). Tại Dương Hòa, lính ở các đồn bốt hoảng hốt bỏ chạy về với nhân dân. Nhân dân Dương Hòa đã nổi dậy làm chủ quê hương của mình trong không khí cả nước vui mừng chào đón hoà bình sau cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm gian khổ và ác liệt.

*          *

*

Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), nhân dân Dương Hòa đã viết lên những trang sử truyền thống hào hùng cho quê hương, đóng góp cho cuộc kháng chiến của dân tộc những thành tích  rất đáng tự hào.

Trước hết, Dương Hòa luôn là vị trí bàn đạp của lực lượng cách mạng đối với thị xã Huế và những xã ven Huế. Do vậy, trong thời kỳ ác liệt chống thực dân Pháp xâm lược, Dương Hòa đã được chọn làm nơi trú chân của các cơ quan Huyện ủy và Tỉnh ủy. Chính từ đây, những nghị quyết quan trọng của Đảng đã được ban hành và truyền đến các địa phương khác trên toàn tỉnh.

Với địa thế hiểm yếu và mang tính uy hiếp trực tiếp đối với thị xã Huế, Dương Hòa đã trở thành “cái gai” trong mắt thực dân Pháp. Địch không muốn mất Huế, không muốn Huế bị cô lập, tất nhiên phải “xóa sổ” Dương Hòa, nơi đóng quân của các cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Mặc dù là trọng điểm bắn phá của kẻ thù, nhưng ý chí đấu tranh, không ngại hy sinh, gian khổ; nhân dân Dương Hòa vẫn luôn phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, giúp Chiến khu Dương Hòa hoàn thành sứ mạng là chiến khu trung tâm nối liền hành lang Chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền) với Chiến khu Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc) để tiền nhập vào thị xã Huế đánh địch và trở thành vùng đất thánh “bất khả xâm phạm” một thời gian từ 1951 đến 1954.

Trong sứ mệnh bảo vệ và phát triển của chiến khu, nhân dân Dương Hòa đã tham gia đóng góp và vận chuyển hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm; khí tài, đạn dược, số lương thực nhân dân Dương Hòa đóng góp cho kháng chiến nhiều hơn so với dân số của Dương Hòa lúc đó. Chính nơi đây đã sản sinh ra nhiều cái tên huyền thoại phản ánh quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do cho Tổ quốc như Vạn Độc Lập (Vạn Tân Ba), chợ Kháng chiến (chợ thôn Hạ), xóm Trung ương (xóm Đồng Tân), Võng Gác “Mắt Thần” (trạm canh ở đồi làng La Khê Trẹm)… Chiến khu Dương Hòa là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử hết sức trọng đại như Đại hội Đảng và các Hội nghị của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế và các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh như: Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thừa Thiên Huế lần thứ I (17/4 - 27/4/1949), Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II (từ 02/5 - 15/5/1950), Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III (từ 20 - 24/7/1951), Hội nghị cán bộ chính trị toàn tỉnh phát động phong trào thi đua giết giặc lập công phối hợp chiến dịch Đông xuân 1953 - 1954 trên toàn quốc…; là điểm dừng chân và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước trong kháng chiến như đồng chí Lê Đức Thọ (1948), Phạm Văn Đồng (1949), Lê Duẩn (1951), Phạm Hùng (1952)…

Không chỉ trực tiếp tham gia làm tốt hậu phương của chiến khu, nhân dân Dương Hòa còn góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong lực lượng bộ đội chủ lực khắp các chiến trường bao gồm Cảm tử quân, Trung đoàn 101, Bộ đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ đều luôn có những gương mặt con em Dương Hòa. Theo đà phát triển của cuộc kháng chiến, lực lượng dân quân du kích Dương Hòa ngày càng trưởng thành đã trực tiếp tác chiến hay phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương đánh hàng chục trận lớn nhỏ, tiêu hao và tiêu diệt địch với nhiều cách đánh địch thông minh, sáng tạo, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.

Trong suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Dương Hòa xứng đáng với sự tin cậy của cấp trên, chịu nhiều hy sinh mất mát, nhiều người con ưu tú của Dương Hòa đã hy sinh tính mạng để phục vụ cho độc lập, tự do của quê hương, đất nước[32]. Chính vì vậy, có thể xem cuộc kháng chiến ở Dương Hòa là hình ảnh thu nhỏ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Thừa Thiên Huế…

 


[1] Địa danh Dương Hòa trước Cách mạng tháng Tám 1945 có thôn Dương Hòa (gồm xóm Hạ, Trung, Thượng) và thôn Lương Miêu, thuộc xã Hương Nguyên, tổng Long Hồ, huyện Hương Trà. Địa danh Dương Hòa được sử dụng từ năm 1930 - 1945 bao hàm địa giới nói trên.

[2] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, Bản đánh máy, trang 11.

[3] Xạ Thứ (Lý trưởng Dương Hòa) đã đem ấn triện nộp cho ông Nghè Thọ (đại diện Việt Minh Bình Sơn - Việt Minh Hương Trà).

[4] Dương Hòa trong thời kì này là bộ phận xã Hương Nguyên. Hương Nguyên lúc này bao gồm các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn. Địa danh Dương Hòa được sử dụng từ 1945 đến 1948 có ý nghĩa Dương Hòa là một thôn của xã Hương Nguyên thuộc huyện Hương Trà.

[5] Các chức danh khác của Ủy ban hành chính xã Hương Thọ xem Phụ lục 3.

[6] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ nhất, ngày 07 tháng 12 năm 2015 (Văn phòng - Đảng ủy xã Dương Hòa).

[7] Hồ sơ đề nghị tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân xã Hương Thọ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

[8] Tham gia công tác xóa nạn mù chữ lúc này có các ông: Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Tuân, Lê Văn Bao, Phan Văn Phú…

[9] Tư liệu Hội thảo xây dựng Lịch sử Đảng bộ xã Dương Hòa lần thứ nhất, ngày 07 tháng 12 năm 2015 (Văn phòng - Đảng ủy xã Dương Hòa).

[10] Đến năm 1949, tên Dương Hòa được hiểu theo nghĩa rộng là chiến khu Dương Hòa.

[11] Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội , Nxb Sự thật, Hà Nội, trang 67.

[12] Tham gia và hy sinh trong trận đánh rơm ớt này có các đồng chí: Ngô Mừng, Ngô Ban....

[13] Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 84 - 89.

[14] Thừa Thiên Huế, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994, trang 67.

[15] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, Bản đánh máy, trang 24, 25.

[16] Đảng bộ Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 107 - 108.

[17] Đình Đính, Phóng sự Chiến khu Dương Hòa, tài liệu đánh máy, trang 1.

[18] Đình Đính, Phóng sự Chiến khu Dương Hòa, tài liệu đánh máy, trang 2.

[19] Báo cáo thành tích đề nghị trên công nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng bộ và nhân dân xã Dương Hòa, Bản đánh máy, trang 2. 

[20] Trạm canh của thôn La Khê Trẹm có một cái mõ bằng gỗ mít rất lớn để trên đồi cao, khi địch tổ chức các trận càn lên chiến khu thì trạm canh làng Le Khê đánh mõ báo động để cảnh báo.

[21] Công an Thừa Thiên Huế, Biên niên Lịch sử Công an nhân dân Thừa Thiên Huế (1945 - 1954), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 52 - 54.

[22] Công an Thừa Thiên Huế, Biên niên Lịch sử Công an nhân dân Thừa Thiên Huế (1945 - 1954), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 55 - 57.

[23] Từ năm 1949 đến năm 1954, xã Hương Thọ được thành lập bao gồm 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty, Hương Phụng và Dương Hòa lúc này được gọi với nghĩa rộng là Chiến khu Dương Hòa trực thuộc sự chỉ đạo của tỉnh Thừa Thiên Huế, có sự phối hợp của huyện Hương Thủy và Hương Trà.

[24] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994),  Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện hương Thủy, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994, trang 121. 

[25] Nguyễn Đình Bảy (2001), Điệp báo thành Huế (Đường về thành phố), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, trang 216.

[26] Bộ Công an - Công an Thừa Thiên Huế (2001), Biên niên Lịch sử Công an nhân dân Thừa Thiên Huế (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 145 - 146.

[27] Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử Lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945- 2005),  Nxb Thuận Hóa, trang 52.

[28] Dương Hòa lúc này là một thôn của xã Hương Thọ, trực thuộc huyện Hương Trà. Vì vậy, chịu sự chỉ đạo của Huyện ủy Hương Trà.

[29] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, Bản đánh máy, trang 33.

[30] Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng bộ huyện Hương Thủy (2008), Lịch sử Lực lượng vũ trang huyện Hương Thủy (1945 - 2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 50 - 54.

[31] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Thọ, Lịch sử Đảng bộ xã Hương Thọ (1930 - 2010), Huế, tháng 4/2015, Bản đánh máy, trang 35.

[32] Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Dương Hòa đã có 2 liệt sĩ hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hàng chục con em Dương Hòa đã tham gia lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 2.149.295
Truy cập hiện tại 647